Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

NHÂN VIÊN CÔNG LỰC VÀ TINH THẦN THƯỢNG TÔN LUẬT PHÁP


NHÂN VIÊN CÔNG LỰC VÀ TINH THẦN THƯỢNG TÔN LUẬT PHÁP


Nguyễn Văn Thạnh

Tâm thế người lính:
Có câu chuyện tiểu lâm nói về tâm thế người lính:
Vị tướng TQ muốn khoe với vị tướng Mỹ về sự dũng cảm của người lính mình, bèn nói: Này anh lính, trước mặt anh là một đồn địch kiên cố, tôi ra lệnh anh tấn công đồn, anh thể hiện lòng dũng cảm mình thế nào?
Thưa chỉ huy, tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh, sẽ liều chết xông chết, nhằm thẳng quân thù nhả đạn, tôi nguyện hi sinh cho tổ quốc.
Vị tướng Mỹ quay sang người lính mình hỏi: Này anh lính, tôi yêu cầu anh thể hiện lòng dũng cảm của mình một cách thật xuất sắc như anh lính Trung Quốc đã làm, anh hành động như thế nào?
Thưa ngài, nếu ngài ra lệnh tôi thực hiện như vậy, tôi sẽ kiện ngài ra tòa án binh vì tội lạm dụng xương máu người lính.

Người tướng Mỹ quay sang nói với vị tướng TQ: Ngài thấy đấy, đây là một người lính dũng cảm thật sự. Người biết hành động theo lý trí và dám kiện cả cấp tướng của mình.
Đây có thể là câu chuyện vui, tuy nhiên nó phản ánh tâm thế của người lính. Tuy là người thực hiện theo mệnh lệnh của chỉ huy nhưng không phải vô điều kiện. Anh ta là một con người phải biết suy nghĩ xem lệnh đó có đúng luật không? Anh ta phải được luật pháp bảo vệ để tránh bị lạm dụng biến thành một con robot, giật dây bỡi cấp trên, gây nguy hiểm cho xã hội. Tên diệt chủng Polpot không thể có ba đầu sáu tay để tàn sát 2 triệu dân Camphuchia trong vài năm, hắn hoàn toàn nhờ vào đội quân robot này. Kẻ độc tài dù có uy quyền đến đâu nhưng không có tay chân vâng lệnh vô điều kiện thì không thể trở thành kẻ khát máu được.
Muốn vậy ngoài việc có một thống pháp luật qui định cụ thể chức năng và quyền hạn của anh ta thì anh ta phải là người am hiểu pháp luật và phải có tinh thần thượng tôn pháp luật. Anh ta thực thi mệnh lệnh là để chấp pháp chứ không phải vì quyền uy cấp trên. Anh phải biết từ chối thực hiện những mệnh lệnh sai trái.
Chúng ta sống hàng ngàn năm trong chế độ quân chủ chuyên chế, nơi mà người lính chỉ có một công việc duy nhất là làm theo lệnh quan tướng, sai đâu làm đó, sai giết dân, đàn áp dân cũng làm. Nếu có thể thì cũng chỉ qui trách nhiệm cho quan tướng còn lính thì vô can. Ngày nay chúng ta sống trong thời đại dân chủ, việc như vậy là không thể chấp nhận được. Nhân dân không thể chấp nhận việc phân bua của người lính là “hãy hiểu cho tôi, tôi chỉ là lính, là lính thì phải thực hiện lệnh của cấp trên, tôi còn mẹ già, con dại để nuôi”. Mọi người lính phải tự chịu trách nhiệm hành vi của mình trước quốc pháp. Pháp luật là công bằng cho mọi người. Đây là một nhận thức mới mà mỗi người chấp pháp nên có và người dân cũng nên biết. 
Vấn đề của đất nước:
Thời gian qua, nước ta nổi lên nhiều vấn đề về luật pháp và thực thi luật pháp. Nhiều vụ việc xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tự do của công dân, đẩy nhiều công dân vào oan khiên, tan nhà nát cửa. Họ khốn khổ đệ đơn kêu oan, đa số là nhắm vào cấp ra quyết định, mà cấp này thường là quan to nên khó khăn muôn phần. Ta thấy đến liên hợp quốc cũng không xử nổi bọn cầm đầu diệt chủng Polpot huống chi một thảo dân ở xứ này.
Một ví dụ nổi trội là bà Bùi Thị Minh Hằng, một công dân đang sống tại Vũng Tàu. Năm 2011 vì thực hiện quyền công dân trong việc nói lên tiếng nói phản kháng lân bang xâm phạm bờ cõi, ức hiếp ngư dân-xin nhắc lại biểu tình là một quyền chính đáng của công dân-bà bị chủ tịch HN ra quyết định cưỡng chế đi học tập cải tạo 6 tháng. Đây là một quyết định vi hiến vì hiến pháp đã ghi rõ “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” (điều 72 HP 1992). Người thực thi quyết định cũng vi phạm nghiêm trọng qui định của luật tố tụng hình sự, họ bắt cóc bà, đưa lên máy bay, cho vào trại giam (dù có gọi là trại giáo dục thì bản chất nó không thay đổi), hành động như một băng đảng chứ không phải là nhân viên chấp pháp quốc gia.
Từ một người làm ăn thành đạt, hành động sai trái của nhân viên công lực đã đưa đến bà đến ngã rẽ oan nghiệt: danh tiếng bị hủy hoại, công ăn việc làm phá sản, gia đình tan nát. Hàng năm trời lênh đênh đi đòi công lý. Cánh cửa công đường luôn đóng chặt trong im lặng. Công dân điêu đứng, nhân viên chấp pháp vô can. Đây là một lỗ hổng lớn đưa đến bất công. Điều này là không thể chấp nhận được.
Kết luận:
Để có cuộc sống bình yên, tinh thần thượng tôn pháp luật được tôn trọng, thực thi thì cần phải có chế tài tất cả những cá nhân có liên quan đến những hành động sai luật. Từ người ra quyết định, đến người thực thi. Tất cả đều phải có trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thưởng thỏa đáng cho thiệt hại do mình cùng gây ra. Nhân viên công lực nên biết điều này để tránh hiện tượng “gió trở cờ” mà bị lao lý. Suy cho cùng chỉ có tinh thần thượng tôn luật pháp mới bảo vệ được tất cả chúng ta. Đây cũng là một hình thức phân lập quyền lực để tránh lạm quyền. 
Bà Bùi Hằng không chỉ kiện người đứng đầu ra quyết định mà cần phải kiện tất cả những người có liên quan đã tiếp tay xâm phạm, làm thiệt hại đến cuộc sống của bà. (Tương tự anh Vươn không chỉ kiện người ra quyết định cưỡng chế sai mà tất cả nhân viên công lực đi phá nhà anh cũng phải có trách nhiệm bồi thường). Hành động này của bà không chỉ đòi công lý cho mình mà còn góp phần trừ một hậu họa to lớn mà dân tộc có thể gặp phải trong tương lai. Đó là kịch bản đen tối: nhà cầm quyền ra lệnh xả súng vào dân, người lính thực thi mệnh lệnh với lý do là chấp hành mệnh lệnh cấp trên! (Thiên An Môn TQ là một bài học nhỡn tiền mà ta cần chiêm nghiệm).

NVT

CÃI NHAU MÀ LÀM GÌ?


CÃI NHAU MÀ LÀM GÌ?

                                                                                Nguyễn Văn Thạnh
1. Sự kiện và truyền thông:
Câu chuyện thầy bói xem voi cho ta một chiêm nghiệm thú vị về lĩnh vực sự kiện và truyền thông. Mỗi thầy bói đã truyền thông cho mọi người biết con voi nó thế nào? Thầy thì cho rằng con voi như cái quạt nan, thầy cho như cái cột đình, thầy cho như cái chổi xuề,….và tất nhiên các thầy đều nói thật. Hoàn toàn các thầy không có động cơ gian dối chi phối. Vậy tại sao một con voi mà có nhiều hình dạng vậy? Bỡi vì mỗi thầy có một cách “nhìn” và cảm nhận khác nhau.
Con voi là một sinh vật hữu hình, tuy bị truyền thông chưa đúng nhưng con người vẫn biết các thầy muốn nói đến cái gì, và con voi đầy đủ như thế nào. Nếu “con voi” là một “vật” vô hình, rộng lớn như hiện tượng xã hội thì người ta chỉ có thể cảm nhận nó qua truyền thông và sự suy luận logic, kết nối các vấn đề mà thôi. Do vậy, nếu một bên có ưu thế truyền thông mạnh thì có thể tác động lên nhận thức xã hội. Xã hội có thể lầm tưởng rằng đó là cả “con voi”. Ví dụ một thế lực muốn bêu xấu “con voi”, họ chỉ cần zoom thật gần ống kính truyền thông vào đít “con voi”, và truyền thông hình ảnh đó phủ khắp xã hội. Khi đó cả xã hội sẽ ngộ nhận mà cho rằng “con voi” là một cái gì đó rất xấu xí, ghê tởm. Họ đâu biết rằng dù đó là sự thật chân thực nhưng là một phần vô cùng nhỏ của “con voi”.
Một số khác lại thấy “con voi” ở góc độ khác và xảy ra tranh cãi. Ai cũng có cái lý của mình, khó mà bác bỏ. Trong một xã hội mà thông tin bị kiểm soát, dân trí thấp thì sẽ dẫn đến mất phương hướng, không biết nên tin ai, theo ai. Xã hội không tập trung được sức mạnh để giải quyết vấn đề.
2. Động cơ của con người:
Con người là một sinh vật có lý trí, luôn có động cơ trong hành động. Động cơ nào thúc đẩy con người hành động thì vô vàn: vì miếng ăn, vì tiền, vì tình yêu, vì lý tưởng, vì sự ngây thơ trong sáng,….Chỉ riêng chuyện này mà nhiều người cãi nhau bất tận và nguyên nhân cãi nhau có thể cũng vì động cơ khác nhau. Ví dụ người CS cho rằng họ muốn lãnh đạo đất nước là vì động cơ yêu nước, muốn mang lại hạnh phúc cho muôn dân, trong khi người chống đối thì cho rằng động cơ lãnh đạo là muốn bảo vệ quyền lợi, bổng lộc phe nhóm. Đó, cuộc đời vô cùng phức tạp.
Suy khi chiêm nghiệm, tôi cho rằng động cơ chính thúc đẩy con người hành động là quyền lợi. Cũng vì quyền lợi mà cuộc sống không có kẻ thù mãi mãi hay tình bạn mãi mãi.
Tôi từng tham gia nhiều cuộc tranh luận và nhận thấy rằng tranh luận với người ngộ nhận, chưa hiểu biết hay tự ái bao giờ cũng dễ chịu hơn tranh luận với người bị động cơ quyền lợi thúc đẩy. Họ tranh luận bằng mọi giá, miễn sao bảo vệ quyền lợi của mình là được. Nhiều khi rất phi lý và chày cối. Nếu phải tranh luận với người mà họ buộc phải nói, phải bảo vệ điều đó cho một “ông chủ” cao hơn đứng sau cánh gà, trong khi ông chủ có quyền đập bể nồi cơm gia đình họ bất cứ lúc nào thì khổ nữa. Bảo đảm dù bạn có dùng đến nguyên lý Einstein, bạn không thuyết phục được họ. Đơn giản họ chỉ là lưỡi gỗ. Âu, cũng là vì nồi cơm mà họ phải làm thế.
Tranh cãi với những đối tượng như vậy chỉ tốn công sức mà thôi, nếu có thắng thì cũng không vì thế mà chân lý được thực thi. Chúng ta cần phải thông minh hơn, tìm kiếm giải pháp khác.
3. Bài học từ Nga
Nước Nga sau khi Xô Viết sụp đổ, tình hình hết sức rối ren. Các vị nhân sĩ trí thức suốt ngày tranh luận nhau: thế nào là dân chủ, thế nào là một bản hiến pháp tốt, nên có câu nào, nên bỏ câu nào,….Trong khi một nhóm nhỏ âm thầm thâu tóm hoặc bán rẻ mạt đống tài sản quốc doanh đang suy sụp. Cả xã hội, ít ai chú đến vấn đề này, họ mãi cãi nhau chuyện cao đẹp hơn. Cuối cùng họ cũng có bản hiến pháp, có bầu cử, có tranh cử tự do,….nhưng dân chủ thì mãi không đến với họ. Đơn giản là ai giữ “nồi cơm”, người đó có quyền. “Nồi cơm” của cả dân tộc rơi vào tay một nhóm nhỏ. Bản hiến pháp đẹp rõ ràng không mang lại được dân chủ.
Dân tôc Nga vĩ đại nhưng lẩn quẩn vì có nhiều trí thức lớn mà có ít trí thức thực tế. Dân tộc nào có nhiều trí thức lớn nhưng không thực tế thì luôn lạc lối vì mơ mộng. (Nhiều trí thức ủng hộ CNCS thuộc trí thức lớn nhưng “ngây thơ” trước thực tế cuộc đời).
Tình hình nước Nga lúc đó đúng là “muôn dân không nhìn ra thế trận. Trí thức sa đà chuyện cãi nhau”.
 4. Kết luận:
Thời gian rồi, trên diễn đàn nóng chuyện góp ý sửa đổi hiến pháp của 72 vị nhân sĩ trí thức, các vị đã làm rất bài bản theo một qui trình mà công dân được quyền làm. Lương tâm trí thức buộc họ phải lên tiếng. Họ còn vận động được hơn 10.000 chữ ký ủng hộ qua mạng để gia tăng trọng lượng tiếng nói, gây sự chú ý của dư luận. Phương pháp này cũng như các quá trình điều tra dư luận xã hội khác, luôn có độ chính xác ở một mức nhất định.
Phát hiện sự hạn chế, chính quyền đã dùng cơ quan truyền thông khổng lồ, zoom vào “đít con voi”. Công chúng thì hoang mang, không biết đâu là thực vì dân, đâu là ảo vì động cơ khác? Phát biểu vừa rồi của ông trưởng đoàn trên VTV còn làm cho nhân tâm phân tán hơn nữa. (Lực lượng đã yếu lại còn phan tán thì dân chủ mãi còn nơi chân trời xa xăm).
Không phải tự nhiên mà nhà cầm quyền lại mở hội “góp ý sửa đổi hiến pháp” lúc này. Tình hình Việt Nam hiện nay gần giống như Xô Viết năm xưa. Các tập đoàn kinh tế nhà nước thi nhau sụp đổ, quá trình bán đổ bán tháo là khó tránh khỏi. Nhiều đại gia quốc tế chuyên “ăn xác chết doanh nghiệp” đã đổ dồn về Việt Nam. Nhiều thương vụ đã đượcxác lập. Nồi cơm của muôn dân có thể được bán đi rất rẻ mạt, miễn có chút tiền qua cơn hoạn nạn này.
Gameshow “góp ý sửa đổi hiến pháp” có thể là một chiêu thức của giới cầm quyền nhằm đánh lạc hướng dư luận, kéo trí thức vào một cuộc tranh luận bất tận để rảnh tay thâu tóm nốt phần nồi cơm còn lại của dân.
Các vị trí thức hãy dùng trí tuệ của mình để hướng dẫn dân nghèo cách thức giữ lại được nổi cơm, không bị bọn cá mập trong nước hoặc bọn kền kền ngoài nước cướp mất. Đừng mãi sa đà cãi nhau, quên mất nồi cơm.
Giữ được nồi cơm cho muôn dân thì không lo gì dân chủ không đến! Dân có tiền, chắc chắn dân có quyền!
@ Nguyễn Văn Thạnh
P.s: Bài viết thể hiện một góc nhìn khác của tác giả về thời cuộc. Tác giả có tham gia ký tên vào bản kiến nghị 72.


ĐẤU TRANH BẰNG CON TIM VÀ LÝ TRÍ


ĐẤU TRANH BẰNG CON TIM VÀ LÝ TRÍ


Nguyễn Văn Thạnh
Nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng người Myanma- Aung San Suu Kyi đã nói “"Giải quyết xung đột không chỉ lên án (hoặc bênh vực-tôi thêm); cần tìm kiếm các nguồn gốc, nguyên nhân của xung đột để có thể giải quyết nó một cách tốt nhất”.
Những ngày này, bất cứ ai có trái tim yêu thương con người, bênh vực kẻ khốn cùng đều sôi sục trước phiên xử gia đình người nông dân Đoàn Văn Vươn. Hàng trăm, hàng nghìn bài viết bênh vực anh. Tất cả đều cho anh đúng. Một nghệ sĩ nổi tiếng cũng đã kêu gọi “tha bổng ông Vươn sẽ thu được lòng dân”.
Tôi cũng hướng tình cảm mình đến gia đình anh Vươn và cầu mong anh được vô tội.

Có giả thuyết: nếu chính quyền nhận thấy sức ép từ công chúng mà tha bổng cho anh Vươn thì có lợi không? Tôi cho rằng nếu làm như vậy thể hiện sự khôn ngoan, cáo già và mị dân của chính quyền mà thôi. Làm như vậy ngọn lửa tranh đấu sẽ tắt tại đây. Gốc rễ của bất công vẫn còn đó, chỉ lắng xuống và năm im. Vấn đề nhức nhối của xã hội vẫn không được giải quyết.
Miếng đất anh Vươn và hàng triệu nông dân khác rồi cũng sẽ bị chính quyền thu hồi với một lý do hợp lý hơn, cách làm nhẹ nhàng hơn, vây đánh êm ái hơn. Nhóm lợi ích sẽ hành động nhẹ nhàng hơn, che đậy kỹ hơn để cùng nhau xơi tái những người nông dân khốn khổ.
Ý thức được điều đó, nên tôi viết bài “Vụ Đoàn Văn Vươn-điểm vỡ của một hệ thống sai”, cố gắng tách tình cảm ra khỏi lý trí để có cái nhìn bình tĩnh nhằm giải quyết được gốc rễ của vấn đề. Tôi mong cộng đồng nhân cơ hội này mà đấu tranh cho một sự công bằng lớn lao hơn.
Năm xưa, những người cộng sản “chân chính” đã hiến dâng đời mình để đi tranh đấu cho dân nghèo nhưng kết quả họ mang lại một xã hội đầy bất công, tha hóa trên diện rộng. Vì sao vậy? Bỡi vì họ dùng nhiều tình cảm trong tranh đấu hơn là lý trí. Họ chỉ nhằm một mục tiêu là chống bất công, bênh vực người nghèo chứ chưa thấy được tính hệ thống của xã hội. Họ chiến đấu cho công bằng vụn vặt chứ không phải đấu tranh cho một hệ thống đúng.
Chúng ta đồng cảm, bênh vực gia đình anh Vươn nhưng chúng ta cần nhìn sự đúng sai ở tính hệ thống. Chúng ta cần chiến đấu để lập lại hệ thống đúng, mang lại công lý, quyền lợi vững bền cho anh Vươn và hàng triệu nông dân khác. Chỉ khi nào làm được như vậy, sự dũng cảm chống lại chính quyền của anh Vươn mới xứng đáng. Hành động của anh không chỉ vì quyền lợi của anh mà còn là tiếng nói của quảng đại người dân Việt khi phải sống trong hệ thống sai.
Đấu tranh cho một hệ thống đúng là đấu tranh cho công bằng bền vững!
NVT

DẮT TAY NHAU ĐI…


HÀ SỸ PHU


DẮT TAY NHAU ĐI…

“Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”

Đôi lời giới thiệu

Giang Nam lãng tử xin giới thiệu một người “khổ vì trí tuệ”.
Hà Sỹ Phu là bút hiệu của một nhà nghiên cứu khoa sinh học. Bài viết này của ông đã gây tranh luận sôi nổi, đặc biệt vì nó được viết trước khi xảy ra các biến cố tại Liên xô và Đông Âu. Chúng tôi đăng toàn văn để độc giả có một ý niệm về những suy tư của người trí thức trong nước, và cũng là để đền bù phần nào sự thiệt thòi của tác giả : bài của ông chưa hề được đăng trên báo nào trong nước, trong khi những bài đả kích ông xuất hiện nhan nhản.
Mấy lời phi lộ 
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Nhớ lời dạy ấy của cha ông, tôi bỗng quên đi sự quá hạn hẹp về hiểu biết của mình mà cả gan làm bàn chuyện quốc gia đại sự. Nhưng biết đâu nỗi bức xúc này lại chẳng là chung của nhiều người! 
Xin được tiếp cận vấn đề từ góc nhìn của những quy luật lôgic khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên. Bài viết có tính chất gợi mở, cung cấp một số nhận thức cơ bản để suy nghĩ, chưa giải quyết vấn đề gì cụ thể, trọn vẹn. 
Nếu từ bài viết có thể lọc ra một chút gì đó gọi được là cái hạt nhân hợp lý thì đối với người viết đã là điều may mắn lắm rồi, nên xin miễn phi lộ dài dòng về những sai sót khó tránh khỏi. Tuy vậy người viết không thể giấu niềm hy vọng được người đọc quan tâm hưởng ứng mà chỉ bảo thêm, và cá nhân người viết xin nhận trách nhiệm trước mọi sự phán xét. 
Những điều này nói ra hôm nay là đã quá muộn. 
Viết ngày 2 tháng 9 năm 1988 
(bài viết cách đây gần 20 năm, nhưng vẫn còn nguyên giá trị với hiện tại)
Tú Xuân Hà Sỹ Phu 

Hãy thử để cho trí tuệ được vài phút tự do, xem nó có thể mách bảo ta điều gì. Sau đó, nếu thấy không có gì ích lợi thì xin mọi người cứ coi đây như những lời nhảm nhí mà loại nó ra khỏi bộ nhớ, tưởng cũng chẳng tốn kém là bao. Ít ra điều đó cũng chứng tỏ rằng chúng ta đã có sự trao đổi dân chủ thực sự. 
Chúng ta hãy cùng nhau tham gia vào việc giải thử bài toán lôgic lớn của xã hội mà bấy lâu nay cứ ở trong tình trạng vừa như rất đơn giản vừa như quá thần bí không có lời giải : Mọi điều rắc rối bắt nguồn từ đâu? 
Bây giờ ta làm theo cách công khai và dân chủ. Mọi người hãy tạm thời thoát ly khỏi những nếp suy nghĩ mà ta đang có, kể cả những tư duy đang được coi là đổi mới, tạm thời thoát ly khỏi những điều đang gắn chặt với quyền và lợi của ta hàng ngày, để cùng ngồi lên chiếc xe của tư duy lôgic. Trong thế giới của tư duy thì không có vùng nào là vùng cấm. Mọi hiện tượng, mọi phạm trù, mọi nhân vật, mọi chủ nghĩa… đều là những dữ kiện của bài toán, không hơn mà cũng không được kém. 
Đi một vòng để quan sát toàn bộ bức tranh, ta có nhận xét tổng quát rằng hệ thống mà ta đang khảo sát chứa đựng quá nhiều nghịch lý :
- Hệ thống dân chủ gấp triệu lần lại vướng mắc chính vấn đề dân chủ.
- Hệ thống tiêu biểu cho sự thật (có các nhà xuất bản Sự thật, và chúng ta thường nói chỉ chúng ta mới có đủ dũng cảm nói sự thật) thì đang phải cố chữa cho được bệnh nói dối.
- Hệ thống tiêu biểu cho triết học duy vật lại là điển hình của bệnh duy ý chí
- Hệ thóng ưu việt (tức là tốt vượt hẳn lên), tiêu biểu cho sự giải phóng Con người, thì lại không ưu việt về quyền Con người, luôn bị chỉ trích về quyền Con người :
- Hệ thống tiêu biểu cho sự đề cao những giá trị tinh thần thì lại xuống cấp những giá trị đạo đức, đang cần làm lành mạnh trở lại những quan hệ xã hội và gia đình.
- Hệ thống tiêu biểu cho tính nhân loại, tính tập thể thì lại xuất hiện nhiều ví dụ tệ sùng bái cá nhân, tập trung quyền lực vào tay một người, lấy một người thay cho tất cả.
- Hệ thống tiêu biểu cho sức sáng tạo của tri thức (xem định nghĩa của Lênin về chủ nghĩa cộng sản và người cộng sản) thì vấn đề tri thức lại cứ cộm lên như một hạt nhân của toàn bộ cái hiện thực cần phải cải tổ.
- Chúng ta vẫn nói sự thắng thua giữa các chế độ rốt cuộc là ở năng suất lao động. Ta luôn nói về những thắng lợi to lớn nhưng chính về năng suất lao động thì ta lại thua quá xa!
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa được mô tả đầy sức sống, còn chủ nghĩa tư bản thì đang giẫy chết. Vậy mà, trong tất cả những trường hợp quốc gia bị chia cắt làm hai thì dù chia theo kiểu nào, nửa thuộc phía giẫy chết cũng có năng suất lao động và chất lượng sản phẩm tốt hơn nửa kia!
* Ta thấy rằng những nghịch lý trên đã và vẫn còn tồn tại nguyên vẹn sau 20 năm .
Trước thực tế ấy, nhiều luận điểm đã và đang được chúng ta đưa ra để giải thích. Ví dụ : 
- Ta có đường lối đúng đắn nhưng khi thực hiện thì có sai lầm. Trên thì đúng đắn nhưng cán bộ trung gian quá yếu. Chủ nghĩa thì đúng đắn nhưng con đường quá mới mẻ nên ta chưa có kinh nghiệm.
- Đây là khó khăn tạm thời do chiến tranh để lại, bè lũ Đế Quốc, Thực dân và bọn Bành trướng phải chịu trách nhiệm về tình hình khó khăn này.
- Do có những cá nhân không chịu tu dưỡng, rèn luyện nên thoái hoá, biến chất.
- Do chế độ quan liêu bao cấp. Do thiếu sót về những tư duy cụ thể như tư duy kinh tế, tư duy đối ngoại, v. v…
Trước một xã hội đầy những nghịch lý lớn lao đã kể ở trên thì những luận điểm giải thích này dẫu có phản ảnh được phần nào đấy hiện thực cũng không đủ tầm để bao quát cả một thời kỳ của lịch sử nhân loại. Nó khác nào như đem dầu xoa, thuốc cảm để chữa ung thư vậy. 
Từ khi có cuộc Cải tổ, Đổi mới trong phạm vi toàn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đến nay, chúng ta đã làm được một việc là đem bày ra công khai trước mọi người một số tư liệu để chúng ta nhìn cho đúng chân dung của mình, một chân dung mà tự mình cũng thấy không thể chấp nhận được.
Những hiện tượng tiêu cực rất cần được phơi bày, nhưng phơi bày mãi cũng không bao giờ hết, và nếu cứ sửa chữa theo kiểu thợ vườn sai đâu sửa đấy thì chẳng khác nào chơi trò trốn tìm vòng quanh. Điều quan trọng là những hiện tượng tiêu cực đã nêu cần phải hệ thống hoá lại, tìm mối liên hệ nhân quả giữa chúng, rồi theo mạch lôgic mà tìm đến nguyên nhân gốc rễ. Cái mạch lôgic ấy chẳng chóng thì chày sẽ tự động diễn ra trong đầu mỗi người nên dầu ta có sợ cũng không cản lại được. Vận mệnh lâu dài của hàng nghìn triệu người cũng đòi hỏi phải làm như vậy, nếu không mọi sự sửa chữa đều chỉ là sự đối phó nhất thời. 
Những thông tin, nhất là thông tin từ cuộc Cải tổ ở Liên xô, đã bộc lộ dần một vài hướng suy nghĩ. Chẳng hạn : 
- Cần xem lại một số luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, hay ít ra là xem lại cách hiểu về những luận điểm cơ bản ấy (ý nghĩ này chẳng có gì mới lạ vì chính Mác và Lênin cũng khuyên như thế và cũng từng làm như thế).
- Chủ nghĩa Đế quốc có thật là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản hay chỉ là một trong những bước đi ban đầu của chủ nghĩa tư bản !Và một khi chủ nghĩa tư bản chưa ở giai đoạn tất yếu phải cáo chung thì điều đó có nghĩa là lịch sử chưa đòi hỏi và chưa tạo tiền đề để có một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đích thực…
Chưa nói nguyên nhân nào là đúng, nguyên nhân nào là sai, nhưng ít ra nguyên nhân cũng phải ở tầm cỡ như vậy mới có thể có sức chi phối ghê gớm đối với xã hội như chúng ta đã và đang thấy. 
Song ta cũng không cần nói theo ai cả. Hãy dùng hiểu biết của chính mình mà rà soát lại toàn bộ vấn đề xem có tự phát hiện được điều gì không? 
Điều đầu tiên để hiểu một chủ nghĩa là xem mục đích và phương tiện mà chủ nghĩa ấy đề cập tới.
Lý tưởng cộng sản là một lý tưởng hết sức tốt đẹp. Vì đã gọi là lý tưởng thì lý tưởng nào chẳng hướng tới hạnh phúc của con người, giải phóng con người khỏi những bất hạnh về vật chất, tinh thần và sự bất công xã hội? Lý tưởng cộng sản nhấn mạnh tính xã hội của con người cũng như của tư liệu sản xuất, điều đó là khoa học, là xu hướng tiến hoá tất yếu của xã hội loài người, nhưng sự xã hội hoá sẽ diễn ra cụ thể thế nào là thuận quy luật thì sẽ bàn sau. Một xã hội không còn người bóc lột người, chính điều này còn gây tranh luận, vì nếu hiểu một cách chung chung là không còn áp bức bất công thì chẳng có gì để tranh luận, nhưng nếu hiểu chữ bóc lột ở đây như một thuật ngữ kinh tế chính trị học, là bóc lột giá trị thặng dư , thì vấn đề lại không đơn giản chút nào. Tuy vậy vấn đề này cũng xin tạm xếp sang một bên, vì tự nó cũng chưa thể là nguyên nhân sinh ra mọi chuyện. 
Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với một lý tưởng lại là đi tới lý tưởng đó bằng cách nào, bằng phương tiện hay công cụ gì. Luận điểm về con đường đấu tranh giai cấp và công cụ chuyên chính vô sản chính là hòn đá tảng của chủ nghĩa xã hội khoa học . Do tầm quan trọng như vậy mà ta hãy dừng lại lâu một chút trên hòn đá tảng này để xem xét cho kỹ, không thể vội và cho qua được. 
Giai cấp là gì, và ý nghĩa của nó trong xã hội như thế nào? 
Để phân định điều phải và quyết định thái độ cũng như hành động của mình, con người có ba thứ căn cứ : trí thức, lòng tin và quyền lợi.
Luôn lấy trí thức, lấy khoa học làm căn cứ, đó là chủ nghĩa DUY Lý (1), cái gì trái với quy luật khách quan mà mình nhận thức được thì không chấp nhận. Luôn lấy lòng tin làm căn cứ là chủ nghĩa DUY TIN (2), cái gì trái với những điều mình tin, mình cho là thiêng liêng thì không chấp nhận. Luôn lấy lợi ích làm căn cứ là chủ nghĩa DUY LỢI (3), cái gì trái với lợi ích của mình hay của những người chung lợi ích với mình thì không chấp nhận. 
Theo mức độ duy lý, con người chia thành tri thức và không tri thức. Theo mức độ duy tín thì chia thành có tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Người thực sự duy lý hay thực sự duy tin thì tự thân không có tính giai cấp rõ rệt, vì sự phân chia giai cấp chỉ là sự phân chia theo quyền lợi. (Giai cấp là những tập đoàn người được phân chia theo sự chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất, theo vai trò trong tổ chức sản xuất và theo sự phân phối của cải xã hội : cả ba tiêu chuẩn này đều là quyền và lợi). Hiểu theo nghĩa đó thì người mang tính giai cấp rõ rệt là người duy lợi (túc là lấy lợi ích làm chuẩn, kể cả lợi ích chân chính, lợi ích của một giai cấp). 
Vì vậy sự phân chia con người thành giai cấp tuy có những ý nghĩa nhất định nhưng không phải là sự phân chia duy nhất có ý nghĩa, không hoàn toàn đầy đủ, không bao hàm được hết xã hội. Tuyệt đối hoá lý thuyết giai cấp là rơi vào thuyết giai cấp cực đoan. Đem cái nhìn giai cấp trùm lên mọi hiện tượng của con người và xã hội sẽ không tránh khỏi làm méo mó xã hội, sẽ gặp lúng túng khi giải quyết vấn đề tri thức, vấn đề tôn giáo cùng như nhiều vấn đề xã hội khác.
Vì quan niệm rằng người nào cũng phải có một thành phần giai cấp nên ta gặp lúng túng khi không biết xếp những người tri thức vào giai cấp nào, và gán luôn cho họ cái bản chất lừng khừng không kiên quyết cách mạng . Thực tế đã cho thấy nhiều nhà bác học đã kiên quyết lên giàn lửa để bảo vệ chân lý khoa học, người tín đồ kiên quyết cách mạng đến mức trở thành lãnh tụ cách mạng, khi nhận thức rằng sự vận động đó phù hợp với quy luật, phù hợp với căn cứ duy lý của mình. 
Duy lý, duy tín và duy lợi tuy khác nhau ở xuất phát điểm nhưng muốn hành động đạt được kết quả tốt thì lại cần sự hỗ trợ của nhau : vì thế nếu phát triển đến độ hoàn hảo thì lại gặp nhau, thống nhất với nhau. Nhưng trong thực tế, ở một phạm vi xác định, ở một con người cụ thể thì ba căn cứ ấy ít khi đạt được sự thống nhất hoàn hảo, thường có tình trạng một trong ba căn cứ ấy nổi lên chiếm vai trò chủ đạo để dẫn dắt hành vi của con người. Ba yếu tố ấy đan vào nhau, chuyển hoá lẫn nhau trong mối quan hệ tay ba vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, nên việc tách bạch ba yếu tố ấy trong một con người, trong một việc làm không phải là điều dễ dàng, và đó là nguồn gốc sâu xa của biết bao hiện tượng rối rắm nan giải của xã hội và của mỗi con người. Nhiều người đã tuyên bố chủ trương kết hợp chân lý khoa học với lợi ích của giai cấp công nhân , nói cách khác là chủ trương chung sống hài hoà giữa duy lý và duy lợi Nhưng trong cuộc chung sống lâu dài thì cái cân bằng rất hợp lý này cứ chuyển dịch để duy lợi thôn tính dần duy lý.
Các Mác rất coi trọng vấn đề lợi ích và đây là một điều đáng quý ở một nhà khoa học, nhưng là nhà khoa học, Mác đứng ở góc độ duy lý mà tiếp cận sang duy lợi. Nhiều người khác cũng đi theo chủ nghĩa Mác nhưng lại từ góc độ duy lợi mà tiếp cận sang duy lý. Người càng ít hiểu biết thì tính duy lý càng ít (nhân bất học, bất trí ly), để thành duy lợi cực đoan, hoặc lại biến chủ nghĩa Mác thành một thứ duy tín, một thứ tôn giáo. 
Trong ba căn cứ ấy thì duy lý tiêu biểu cho khoa học, cho quy luật khách quan nên là căn cứ đúng đắn nhất, nó bao dung dược cái duy lợi và duy tín hợp lý. Ngược lại, khi chủ nghĩa duy lợi hay duy tín mà nắm vai trò dẫn dắt xã hội thì nó rất dễ tiến đến cực đoan mà không chấp nhận nói cái duy lý. Giáo hội La mã ngày trước đã thiêu sống nhiều nhà bác học chỉ vì họ phát hiện những định luật khoa học. Những tên vua Trung Quốc nào võ biên ít học thì đã phân thư, khanh nho (đốt sách giết nhà nho). Những hồng vệ binh mù chữ Trung Quốc và những tên lính Pônpốt mù chữ Campuchia đã hành hạ những trí thức ưu tú của dân tộc mình. Phong trào Xô viết Nghệ tĩnh năm 1930 đã đặt tri thức lên hàng đầu trong khẩu hiệu Trí, phú, địa hao – Đào tận gốc, trốc tận rễ!. Nhiều nạn nhân văn hoá của Liên xô đã là nạn nhân điển hình của những sự đối xử tương tự… 
Nhìn rộng ra nửa thì lịch sử tiến hoá của nhân loại thực chất là gì? 
Do biết sử dụng công cụ nên, khác với mọi sinh vật, con người không tiến hoá bằng cách biến đổi những cấu tạo của cơ thể mà bằng cách hoàn thiện không ngừng công cụ lao động. Cùng với sự cải tiến công cụ là cải tiến quy trình sản xuất, hoàn thiện kỹ năng… dẫn đến tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Tất cả những biến đổi cơ bản ấy đều là biểu hiện sự gia tăng tri thức của con người về các quy luật tự nhiên và quy luật quản lý, tổ chức xã hội. Vậy thì, cái lõi bên trong của dòng tiến hoá là dòng phát triển của trí thức nhân loại, còn sự đấu tranh giữa tập đoàn người này với tập đoàn người khác, tức là sự đấu tranh giai cấp chỉ là cái vỏ, là những hiện tượng xã hội kèm theo mà thôi. Dòng gia tăng tri thức của xã hội là cái lõi, nó phản ánh bản chất của sự tiến hoá nên không thể thiếu và tồn tại xuyên suốt từ đầu đến cuối lịch sử loài người. Còn sự đấu tranh giai cấp chỉ là cái vỏ bên ngoài, là một trong những hiện tượng xã hội kèm theo nên chỉ có tính chất tạm thời, luôn thay đổi màu sắc, và con người có khả năng sử dụng nó, hoặc giảm nhẹ hay loại trừ nó đi trong nhiều giai đoạn của dòng tiến hoá bất tận. 
Khi nói trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuẩt là yếu tố năng động nhất thì sẽ là thiếu sót nếu không tiếp tục nói : trong lực lượng sản xuất thì sự năng động ấy nằm ở yếu tố con người, trong con người thì sự năng động ấy nằm ở bộ óc tức là phần lao động trí tuệ. 
Bản chất của sự tiến hoá là như vậy. Tinh thần khoa học quan trọng nhất trong học thuyết xã hội của Mác đáng lẽ cũng phải là như vậy. Nhưng dưới lăng kính giai cấp nhiều cuốn sách lại có lối mô tả dòng tiến hoá của xã hội như sau :… Giai cấp bị trị và giai cấp thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên sinh ra đấu tranh giai cấp. Nô lệ chống chủ nô làm chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã. Nông dân chống địa chủ phong kiến làm chế độ phong kiến tan rã. Giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản làm chủ nghĩa tư bản sụp đổ… . Lối mô tả ấy xuất phát từ nhận thức sai lầm coi dòng tiến hoá là dòng đấu tranh của những giai cấp bị trị lật đổ những giai cấp thống trị, nên mỗi khi giai cấp bị trị không nắn được quyền lãnh đạo trong xã hội mới thì chúng ta coi là công lao của họ bị lợi dụng. Thế thì lịch sử là một chuỗi bất công đầy vô lý, trong đó những kẻ xấu bụng đi lợi dụng công lao người khác lại cứ được lịch sử cho kế tiếp nhau điều khiển xã hội. Đến khi có cách mạng vô sản thì mới phát sinh một ngoại lệ, giai cấp công nhân là giai cấp bị trị lên lãnh đạo xã hội và ngoại lệ này mới chính là niềm mơ ước của nhân loại (!!). 
Không, lịch sử rất thống nhất chứ không tuỳ tiện. Mỗi cuộc biến đổi được gọi là cách mạng xã hội bao giờ cũng là sự cạnh tranh của hai thế lực lãnh đạo xã hội, tiêu biểu cho hai bậc thang về trình độ tổ chức xã hội, ứng với hai trình độ khác nhau của khoa học, của tri thức con người thời ấy. Thế lực lãnh đạo mới sẽ thắng vì có trình độ cao hơn (thế lực có trình độ cao hơn này không bao giờ nằm ở giai cấp bị trị, dù giai cấp bị trị có tạm thời đoạt được quyền binh thì trước sau họ cũng lại rơi vào quỹ đạo của những thế lực kia). Sự đấu tranh của giai cấp bị trị cũng như của quần chúng nói chung chỉ có tác dụng tạo ra áp lực to lớn của xã hội giúp cho chuyên chính mau chóng chuyển từ tay thế lực lãnh đạo cũ sang tay thế lực lãnh đạo mới, điều này đáp ứng yêu cầu phát triển chung của toàn xã hội. Lôgic của lịch sử vốn là như vậy, bất chấp chúng ta vừa lòng hay không vừa lòng. Việc đưa giai cấp công nhân vào vị trí giai cấp lãnh đạo trong toàn xã hội mới là một việc làm mang tính đạo đức, làm nức lòng số đông đang công phẫn nên có sức mạnh tập hợp to lớn trong thời kỳ đầu, nhưng không theo quy luật nên dễ tự phát sinh mâu thuẫn trong những giai đoạn sau. 
Nhiều người nhận xét rằng càng về sau việc thực thi chủ nghĩa Mác càng có xu hướng không đúng với những tinh thần nguyên lý ban đầu của Mác và chiều hướng của những sai lệch dường như có tính lôgic, tính quy luật. 
Thực tế đã bộc lộ một nhận thức sai lệch của nhiều người, hiểu tinh thần chính của chữ cách mạng là ở ý nghĩa lật đổ, lật đổ người giàu, lấy của chia cho người nghèo như các anh hùng hảo hán ngày xưa vẫn làm. Đây là biểu hiện chủ nghĩa bình quân thiển cận của nông dân. Chủ nghĩa bình quân gắn chặt với tư tưởng lật đổ. Khi mình chưa có thì muốn lật đổ để cạo bằng, cạo bằng được rồi lại muốn mình giàu hơn người khác, lật đổ vua nhưng rồi mình lại thành vua. 
Muốn làm giảm tận gốc bất công xã hội và tăng hạnh phúc của nhân dân thì sự công bằng phải đặt trên cơ sở nâng cao cả nền sản xuất của xã hội. Động tác chính của cách mạng là động tác nâng cao chứ không phải động tác cạo bằng. Cạo bằng là động tác của bạo lực, nâng cao là động tác của tri thức khoa học, của năng lực tổ chức sản xuất và tổ chức xã hội. Chúng ta đấu tranh cho công bằng chứ không chấp nhận sự cạo bằng, vì cạo bằng làm cho xã hội thấp đi và tạo ra sự bất công mới khốc liệt hơn. 
Nếu ta mới chỉ đạt những thắng lợi to lớn trong những việc mang tính lật đổ và cạo bằng mà chưa có những thắng lợi to lớn trong việc nâng cao thì thực chất là chưa có cách mạng. Cách mạng xã hội không đồng nghĩa với cướp chính quyền, cũng không đồng nghĩa với giải phóng dân tộc… mặc dù những hình thức đấu tranh chống áp bức, đòi công bằng xã hội (trong đó có đấu tranh giai cấp)đều rất cần thiết, và còn luôn luôn cần thiết trong xã hội loài người, đều có giá trị riêng của nó và liên quan mật thiết với nhau. 
Giai cấp bị trị trong xã hội cũ không thể trở thành giai cấp lãnh đạo trong xã hội mới vì bản thân giai cấp bị trị không thể tiêu biểu cho trình độ nhất của tri thức con người thời ấy. Chính vì thế mà khi muốn đưa giai cấp công nhân thành giai cấp lãnh đạo, Mác đã phải đặt ra một điều kiện rằng đó phải là giai cấp công nhân đại công nghiệp để có thể tiêu biểu cho nền sản xuất hiện đại, để công nhân đồng thời là trí thức. 
Nhưng thử nhìn vào các nước tư bản đã có nền đại công nghiệp hiện nay thì ta thấy tầng lớp tiêu biểu cho khoa học, cho trí thức tiên tiến của các nước ấy không thể nào lại là công nhân của các nước ấy được, mặc dù trình độ công nhân của họ cao hơn của các nước khác rất nhều. Mà hình như khi trình độ của những công nhân ấy được nâng cao lên (như ở Nhật bản chẳng hạn) thì họ lại giảm đấu tranh đi, tức là giảm sự giác ngộ giai cấp , tức là giảm khả năng trở thành lãnh đạo cách mạng. Như vậy thì chính yêu cầu của Mác đề ra cũng có thể còn là bật cấp, huống chi những người Bôn-sê-vich Nga (cũng như đảng Cộng sản ở nhiều nước đã làm cách mạng vô sản) thì lại bất chấp cả yêu cầu tối thiểu ấy của Mác, chủ trương làm cách mạng ngay trong khi giai cấp công nhân nước mình còn cách xa yêu cầu của Mác. Chưa kể trường hợp mà sự lãnh đạo thực chất còn nằm trong quỹ đạo nông dân thì đương nhiên còn tai hại hơn. 
Phải chăng do ý thức được cái lỗ hổng này mà Lê-nin đã yêu cầu người cộng sản phải cấp trau giồi trí thức, và tự Lê-nin đã nêu một tấm gương về sự sử dụng trí thức, kể cả trí thức của chế độ cũ. Lê-nin nói : Chỉ có đem toàn bộ kho trí thức của nhân loại để làm giàu cho bộ óc của mình, chúng ta mới có thể trở thành người cộng sản!. Cái định nghĩa tuyệt vời về người cộng sản ấy có thể coi chính là định nghĩa về người trí thức. Chất cộng sản và chất trí thức phải chung làm một. Nếu một đảng viên đều được kết nạp trên tinh thần ấy của Lê-nin thì đảng cộng sản chính là đảng của trí thức cách mạng. 
Nhưng trong thực tế thì lời giáo huấn ấy có thực hiện được không? 
Đây là một tình trạng có thật và khá phổ biến : Chúng tôi là những con em công nhân và nông dân. Nếu chúng tôi chỉ học khoảng hết cấp một và ở lại địa phương sản xuất thì với lòng hăng say mà chúng tôi vốn có giám chắc rằng chúng tôi đã thành đảng viên từ lâu rồi. Nhưng chúng tôi lại ham học. Sau mấy chục năm được nhà trường xã hội chủ nghĩa trau giồi bao nhiêu trí thức và khoa học tự nhiên, về triết học Mác Lê-nin, về chính trị… thì bây giờ các chi bộ lại không còn coi chúng tôi là thành phần công nông gần đảng nữa mà chuyển thành thành phần tiểu tư sản bấp bênh. Trở thành kỹ sư, tiến sỹ, giáo sư… thì lại xa đảng hơn lúc chưa đi học!. Nghĩa là trên thực tế thì chất Đảng không thuận chiều với chất trí thức. 
Đó là những nghịch lý . 
Những nghịch lý ấy lại là nguyên nhân của một loạt các nghịch lý tiếp theo. 
Kết quả trực tiếp nhất và cũng cơ bản nhất là sản xuất không phát triển, năng suất lao động thấp, sản phẩm hàng hoá ít, đời sống khó khăn. Đời sống tinh thần cũng bị hạ thấp do phải lùi bước trước những nhu cầu sinh tồn tối thiểu. Tính kém hiệu quả của tổ chức xã hội đã gây nên cái điều rất vô lý (thực ra chẳng có gì là vô lý cả)là muốn xây dựng một hệ thống phát triển nhất trong lịch sử loài người thì lại thu được một hệ thống không phát triển, thậm chí chống lại sự phát triển. 
Con người một khi không đủ trí thức để có điều kiện huy động sự thông minh và tính kiên quyết để tính cái lợi xa thì nó huy động sự thông minh và tính kiên quyết để tính cái lợi gần. Không tăng được sản xuất để gia tăng của cải chung của xã hội thì cải tiến cách phân phối để chiếm được phần hơn trong cái tổng số còn ít ỏi. Sự ưu tiên đặc biệt này gắn chặt với chức quyền. Vì lợi mà phải chiếm quyền (vẫn từ cái gốc duy lợi mà ra). Có chức có quyền thì có lợi. Người ta xô nhau chiếm chức quyền làm cho bộ máy chính quyền vốn đã ít hiệu quả lại cứ phình to mãi ra. 
Sự bao cấp đến mức thành đặc quyền đặc lợi cứ chất mãi gánh nặng lên vai Nhà nước, lên vai nhân dân. Đến mức không chịu nổi nữa thì Nhà nước buộc phải chống bao cấp nhưng lại buông khỏi tay mình những bộ phận cần được bao cấp chu đáo. Điều này làm cho Nhà nước yếu đi. Nhà nước yếu đi thì điều khiển làm sao được sự chống bao cấp? Nạn bao cấp không thực sự mất đi mà tồn tại một cách không chính thức thì lại càng nguy hiểm hơn. Nó mang tính bao cấp trá hình, bao cấp nhưng lại pha màu tự do cạnh tranh và chụp giựt. Giảm biên chế là một nhu cầu sống còn, nhưng nếu tiến hành giảm biên chế trong điều kiện cán bộ khung chưa được kiện toàn trước từ trên xuống (mà điều này thì không thể thực hiện được) và ở bên dưới thì quần chúng chưa thực sự làm chủ thì mỗi đợt giảm biên chế càng tạo điều kiện để những con ký sinh trùng bám chặt thêm vào ruột Nhà nước mà sinh đẻ thêm và đẩy những người trung thực ra rìa, thậm chí có thể dẫn đến tình trạng tư hữu hoá cơ quan nhà nước. 
Khi người chỉ huy không đủ trí thức để điều hành công việc và thuyết phục quần chúng thì họ bị giằng co giữa hai động cơ :một mặt rất muốn dùng những người tri thức, một mặt lại sợ trí thức. Để có thể che giấu sự kém cỏi của mình, để được yên tâm toạ hưởng giữa nơi mập mờ, lùng nhùng, họ không giám thực sự nâng cao dân trí, không giám cho dân phát triển dân chủ, tự do. Anh sáng trí tuệ đối với họ lúc này lại là điều bất lợi (và cái châm ngôn kết hợp chân lý khoa học với lợi ích của giai cấp lúc này chỉ còn là khẩu hiệu trên giấy thôi, chân lý khoa học không được tôn trọng đã đành mà lợi ích cũng không còn là lợi ích giai cấp). 
Có ham muốn, có quyết tâm mà thiếu trí thức thì ắt là sa vào vòng duy ý chí. Người chỉ huy sẽ trở thành kẻ độc tài dù tự giác hay không tự giác. Vì thế mà xất hiện cái điều tưởng như rất vô lý là muốn xây dựng một hệ thống đầy đủ tính Con người nhất thì lại thu được một hệ thống mâu thuẫn với quyềnCon người. Chúng ta không quên rằng Mác và Lê-nin đã từng phê phán kịch liệt thứ chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính, kiểu này là sản phẩm chung của bệnh xã hội chủ nghĩa không tưởng . 
Việc xây dựng chuyên chính vô sản như các nước xã hội chủ nghiã chúng ta đã làm ắt phải dẫn đến sự sùng bái cá nhân. Tại sao vậy? 
Từ trước tới nay con người bao giờ cũng coi là giá trị nhân đạo là giá trị cao nhất, là thước đo cao nhất. Thước đo cuối cùng. Nhưng đùng một cái, xuất hiện và lưu hành luận điểm rằng : Không có sự nhân đạo chung chung. Trong xã hội có giai cấp thì sự nhân đạo cũng mang tính giai cấp (!). Vì thế, trước hết phải trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là tiêu biểu cho thời đại nên lợi ích của giai cấp này cũng phù hợp với lợi ích chân chính của các giai cấp khác . Thế là tính nhân đạo được thay thế bằng tính giai cấp, hay nói đúng hơn là phải quy thuận tính giai cấp. Cái giá trị tinh thần cao quý nhất mà con người bao đời đã dùng để dạy bảo nhau sống cho nên người bỗng bị đảo chính rất gọn để thay bằng một giá trị được gọi là mới, là cao hơn, nhưng chưa qua thử thách của lịch sử (và ngay về phương pháp luận nó đã tỏ ra không ổn). Nhưng ngay cả sự đề cao giai cấp công nhân ở đây cũng chỉ mang tính hình thức vì vấn đề không dừng ở chỗ này. Giai cấp phải được đại diện bởi đội tiền phong của mình là Đảng, tính giai cấp được nâng thành tính đảng. 
Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ (mà thực tiễn cho thấy tính dân chủ thì thường bị vi phạm, còn tính tập trung thì bất khả vi phạm). Đảng tập trung vào trung ương đảng. Trung ương tập trung vào Bộ Chính trị… và cuối cùng tập trung vào một người nắm quyền cao nhất. Ai chống lại người này thực tế sẽ dễ dàng bị quy là chống Trung ương(tất nhiên về lý thuyết thì không ai nói như vậy), chống Trung ương sẽ bị quy là chống Đảng, chống đảng quy thành chống giai cấp mà chống đúng vào cái giai cấp tiêu biểu của nhân loại thì hiển nhiên là chống dân tộc, hoặc chống cả nhân loại rồi còn gì! Rốt cuộc, tình cảm thiêng liêng đối với dân tộc hay đối với toàn nhân loại lại được đo bằng sự trung thành đối với một con người cụ thể. Chuyện Stalin. Mao Trạch Đông… dễ dàng quy nhiều đồng chí của mình trong Bộ chính trị thành phản động đã chẳng là những ví dụ điển hình đó sao? 
Vì thế mà tồn tại cái điều rất vô lý (?) là muốn xây dựng một hệ thống dặc trưng bởi tính tập thể, tính thế giới đại đồng, tính toàn nhân loại lại thu được một hệ thống rất dễ nảy sinh chủ nghĩa cá nhân cực đoan mâu thuẫn với tính Nhân loại.
Tiến hoá cũng là quá trình trong đó tính Nhân từng bước lấn dần Tính thú. Khi yếu tố nhận không được phát huy thì yếu tố thu sẽ vùng dậy. Biết bao vụ án đau lòng là biểu hiện sự lộng phát của thú tính. Con người dùng bạo lực để thống trị nhau, lấy việc trừng trị người khác làm điều thích thú, sinh sống bằng cách chiếm đoạt những giá trị có sẵn của thiên nhiên và xã hội chứ không sáng tạo… 
Con người là một sinh vật xã hội nên sự phát triển tính nhân cũng đồng thời là sự phát triển tính xã hội, tính có tổ chức của nó. Tính xã hội là một biểu hiện cao của nhân tính, còn chủ nghĩa quân phiệt với mọi biểu hiện mất dân chủ về bản chất là dị chứng của thu tính, nên hai thứ đó phải được xem là đối lập nhau như nước với lửa. 
Chúng ta có trong tay một xã hội không theo ý muốn, thậm chí lộn ngược, lộn ngược so với ý đồ thiết kế, lộn ngược so với cái tự nhiên, trong đó không có cái gì ở đúng vị trí hợp lý của nó cả (tức là một hệ thống có khuyết tật cấu trúc) nên cứ người nọ thì phải làm việc của người kia. 
Vì thế mà không một quy luật chính thống nào của tự nhiên cũng như của xã hội có thể phát huy được xã hội. Vì như trong vùng phần vật chất thì những quy luật của thế giới vật chất thông thường không còn tác dụng vậy. Trong một không gian phần quy luật thì những nghịch lý sẽ hoạt động :cái tính thua cái thô, cái trật tự thua cái lộn xộn, cái tích cực thua cái tiêu cực, cái đạo đức thua cái vô liêm sỉ… và con người đi giật lùi! 
Có phải rằng bấy lâu nay chúng ta lúng túng muốn cắt nghĩa cho mình mà không sao cắt nghĩa được? Vì, hiện thực xã hội tuy có thế thật nhưng lý tưỏng của chúng ta thì không thể nói là không cao đẹp. Vì thực tế khách quan tuy có thế thật, nhưng chung quanh thì ai muốn thế? Vì hiện nay tuy có thế thật, nhưng trước đây đâu có thế? Vì tuy có những kẻ đồi bại thật nhưng còn bao tấm gương tuyệt vời trong sáng thì sao? Vì tạm thời tuy có thế thật nhưng rồi xã hội vẫn phải tiến lên chứ?… Vâng, đúng như vậy, không có gì là bế tắc cả. Khi chúng ta đã gỡ được cái điểm nút cuối cùng trong mớ bòng bong ấy thì mọi điều rắc rối trái ngược đều được giải đáp thích đáng, trọn lý vẹn tình. Có tách bạch được chính xác tận gốc cái sai mới bảo vệ được các giá trị chân chính. Còn nhưũng lời giải nửa chừng thì có thể dễ dung hoá nhưng rồi sẽ lại tiếp tục bế tắc. 
Chỉ cần chúng ta thực sự phục thiên. Nhưng chúng ta sẽ thực sự là những người bế tắc nếu chúng ta bảo thủ. Một bên là lý thuyết tốt đẹp, một bên là thực tế không chấp nhận được, chúng ta bị nhốt ở giữa, lúng túng đối phó, mà bức tường hai bên cứ khép dần lại dưới sức ép của nhu cầu đổi mới. Xuất phát từ lương tâm trong sáng, nhiều người bảo thủ trước đây nay đã dũng cảm tự phản bác mình để thành một chiến sỹ trong Mặt trận Đổi mới. Nhưng những kẻ cố thủ thì đối phó với thực tiễn bằng cách chiếm hữu chức quyền cho chắc, tranh thủ dùng quyền lực để kiếm lợi, miệng thì nói dối, tìm mọi cách để nguỵ biện, nguỵ trang. 
Chiếm hữu quyền lực là biến tướng của chế độ chiếm hữu, nó khôn ngoan và triệt để hơn nhiều so với chiếm hữu trực tiếp tư liệu sản xuất. Còn muốn dung hoà giữa hai thứ không thể dung hoà là lý tưởng tốt đẹp và thực tế xấu thì có cách gì khác mà không phải chống chế bằng cách nói dối, nguỵ trang? Nguỵ trang và chống nguỵ trang là cục diện đặc biệt của những cuộc đấu tranh chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá… ngày nay. Những tính cách vốn là ưu điểm như nhân hậu chín chắn, có quan điểm lịch sự, biết chờ đợi nhau, có thái độ thực tế, biết thích nghi… nhiều khi lại được sử dụng một cách rất bệnh hoạn để che đậy những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cơ hội như thái độ bạc nhược, quay mặt đi một cách vô trách nhiệm, ngậm miệng ăn tiền, trì hoãn, thậm chí độc ác, lì lợm, cố thủ… Một bộ phận của giới trí thức bị phân hoá đã rời khỏi sự duy lý chân thực mà đứng hẳn sang phía duy lợi cực đoan (như vậy thì về thực chất họ không còn là trí thức)đã góp phần rất đắc lực vào sự nói dối, nguỵ biện này. Trong bức tranh chung về sự tha hoá, cái bệnh nói dối cứ như con bạch tuộc ôm ghì lấy toàn xã hội, chẳng để cho ai thoát ra! 
Nhưng không, chúng ta phải thoát ra! 
Sau cùng, nhìn bao quát toàn sơ đồ để thấy một điều mấu chốt là dùng phương tiện không thích đáng thì không tới được mục đích. 
Ta tưởng tượng như có anh lái xe nọ, phải đến một miền rất xa để kiếm lương thực về cho mọi người và cho anh ta. Nhưng chúng ta lại trao cho anh ta một phương tiện quá đặc biệt, một chiếc xe mà trên đó có đủ lương thực mà anh ta thoả sức ăn cả đời không hết, thì chỉ cần đi một quãng là anh ta bắt đầu thay đổi ý định (sự thay đổi tất yếu, mà chúng ta gọi là thoái hoá biến chất) :cứ việc ngồi trên xe mà toạ hưởng, chứ dại gì xông pha mưa gió đến nơi xa xôi nọ! Dẫu có đến nơi thì cái phần mà anh ta sẽ được chia chắc gì cái phần mà anh đang có sờ sờ trên chiếc xe này? Thế là anh lái xe biến luôn cái phương tiện thành mục đích. Anh ta đến đích một mình đến thiên đường rất sớm còn mọi người thì chẳng ai được xơ múi gì cả. Khi chiếc xe chỉ nổ máy, chữa máy giữa đường mà không đi nữa, hoặc muốn đi thế nào cũng được, thì người lái xe đâu cần phải biết lái xe? Cái anh ta cần biết bây giờ là kĩ thuật gây ảo giác và làm tê liệt khả năng phản ứng của mọi người.
Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì cứu nước mưu hạnh phúc cho dân là mục đích. Chủ nghĩa Mác Lênin được Bác coi là con đường là phương tiện giúp dân ta đi đến đích đó. Nhưng rồi dần dần lại xuất hiện tín ngưỡng dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa ! Lạ như vậy đấy, chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện thì nó là cái để ta dùng chứ sao lại là cái để ta thờ? Động cơ ấy lúc đầu hẳn là do ta thành tâm quá đó thôi… Nhưng dù do gì đi nữa thì hậu quả nguy hiểm vẫn là ở chỗ : khi cái phương tiện đã thành cái mục đích thì lẽ tự nhiên cái mục đích (ở đây là dân tộc), đổi chỗ để thành cái phương tiện (!). 
Như trong câu chuyện khôi hài ngày trước, khi đôi giầy da được đánh bóng và kẹp bên nách thì đôi bàn chân phải thay đôi giầy mà đương đầu với gai góc. Lúc vấp ngã, chân toé máu ra, ai cũng tưởng phen này anh ta phải tỉnh ngộ, bỏ giầy xuống mà đi vào chân. Nào ngờ đây chính là dịp để anh ta càng thêm tự hào về sự thông minh của mình, rằng nếu không thì cú vấp vừa rồi hắn đã làm sứt mất đôi giầy quý. Nghe chuyện khôi hài mà ứa nước mắt. Nhưng anh ta có cái lý của anh ta đấy vì đối với anh ta, thì cái để anh hy vọng trở nên sang trọng chính là đôi giầy bóng chứ đâu phải đôi chân! Cố giữ lấy đôi giầy cũng phải! 
Đã có một thời, và thời đó còn tiếp đến ngày nay, chúng ta muốn giương ngọn cờ giai cấp làm tấm hộ chiếu quá cảnh vượt qua mọi biên giới dân tộc để thống nhất toàn thế giới. Nhưng thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng ý muốn ấy chỉ là chủ quan (nên chẳng giương ngọn cờ dân tộc để khắc phục dần mâu thuẫn giai cấp?). Có một quy luật đã được kiểm nghiệm là nếu thống nhất với nhau chủ yếu từ tiếng gọi của lợi quyền thì trước sau cũng lại chia ly chính do lợi quyền. Chỉ có một thứ thực sự là của chung của nhân loại, không thể chiếm hữu, không thể độc quyền, một thứ mà ngày nay cứ xuất hiện ở đâu là quốc tế hoá ngay, đó là trí tuệ, là khoa học, là sự phát hiện những quy luật khách quan. Cái tài sản chung quý báu này luôn được đổi mới, bổ sung. Còn nói về chủ nghĩa thì đủ sức ôm cả cái loại người bất diệt có lẽ chỉ có và chỉ cần một chủ nghĩa, cái chủ nghĩa chẳng có gì mới nhưng bất diệt mà ta rất nên tôn thờ là chủ nghĩa nhân đạo. (mọi chủ nghĩa khác chẳng qua chỉ là những hệ phương pháp ứng xử để ta sử dụng linh hoạt trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thôi). 
Có hành động đúng quy luật thì mọi việc mới xuôi được. Hiện tượng xã hội lộn ngược với những nghịch lý đã nói trên chỉ có thể giải thích rằng ngay từ những điểm xuất phát chúng ta đã nghĩ và làm không đúng với những quy luật khách quan nên càng về sau càng chịu sự chống trả quyết liệt của quy luật. Muốn làm chủ như chúng ta thường nói, trước hết phải làm chủ được các quy luật. Muốn vậy, con người trước hết phải có sự học hành đầy đủ để tiếp thu những trí thức đã có của nhân loại, phải được suy nghĩ hoàn toàn tự do, và đặc biệt phải lấy thực tiễn để kiểm chứng mọi điều đã nghĩ, kể cả những điều mà một thời những tượng đá đóng đanh vào lịch sử. Chính Các Mác đã khuyên mọi người hãy hoài nghi tất cả , hoặc là nhân cách của một nhà khoa học lớn! Chính Mác đã nêu tấm gương về sự tự hoài nghi, tự xét lại mình thì đương nhiên Mác không thể chấp nhận danh hiệu mác xít cho những ai muốn biến Mác thành một thần tượng bất khả xâm phạm. Một khi Mác đã không chấp nhận để mọi người coi mình là thần tượng thì còn học trò nào của Mác được phép chấp nhận điều đó? Từ khi Mác mất đến nay hơn một thế kỷ, con người lớn lên như vũ bão, khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi hẳn bộ mặt loài người, kỹ thuật tin học ngày càng gắn cả loài người thành một chính thể. Nếu chúng ta không nhìn nhận xã hội và lịch sử tinh tường hơn thời kỳ của Mác thì sao xứng đáng là những lớp con cháu của Mác? Những điều thú vị là ở chỗ việc nhìn nhận lại một số điểm trong học thuyết của Mác không làm giảm đi sự tôn kính của chúng ta đối với Mác. Chúng ta hãnh diện đã có Mác là một người khổng lồ nhân từ cho ta được phép đứng lên vai. 
Những hoài nghi mới là điều kiện cần, chưa là điều kiện đủ. Hoài nghi có thể dẫn đến đúng hơn, cũng có thể dẫn đến sai hơn. Nếu lấy cớ hoài nghi của Mác để bổ sung, để nâng cao, thậm chí để cứu học thuyết Mác khỏi rơi vào sự tầm thường như có người đã nói, mà đưa thêm vào những quan điểm thiếu khoa học, thiếu thực tế, đầy ý chí chủ quan của mình thì lại càng tai hại hơn. 
Vấn đề đặt ra quá lớn, tầm suy nghĩ của một người lại quá nhỏ, khuôn khổ một bài viết lại càng nhỏ hơn, thiếu sót là điều không tránh khỏi. Nhung chúng tôi thiết nghĩ sẽ không phải là vô ích nếu chúng ta chân thành, nếu chúng ta nói thật. Nhiều người nói thật sẽ dẫn đến sự thật. Điều quan trọng là tìm được cái gốc của những sai lầm. Tuy từ đó đến chỗ xác định được cách đi đúng đắn cũng không dễ dàng (và vấn đề này không phải là nội dung đề cập của bài viết này), nhưng khi cái gốc của sai lầm đã được phơi bày thì cái hướng đúng cũng tự nhiên đã lộ ra rồi. 
Alexandr Bovin, nhà phân tích chính trị của tờ Izvestia (Liên xô), sau khi nói rõ quan điểm kiên quyết chối bỏ loại xã hội chủ nghĩa quan liêu, thiếu thốn triền miên, xuống cấp những giá trị đạo đức, thay tự do bằng sự trấn áp dốt nát… đã nêu ý kiến về cách sửa chữa là : tất cả các đoạn trên con dấu toán học cần phải đổi ngược lại! (Tuần tin thanh niên. 8-8-1988). 
Và nếu như trên trang giấy đã đổi ngược các dấu toán học thì trên đường đi lẽ nào không phải quay ngược các tấm biển chỉ đường. 
Nhân loại, như lịch sử đã từng chứng minh, rốt cuộc vẫn dắt tay nhau đi chung trên một con đường, con đường tiến hoá, thêng thang, dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ! 
Ngày 2-9-1988 
Tú Xuân Hà Sỹ Phu 
(1), (2), (3) Khái nim duy lý  đây không hoàn toàn trùng vi khái nim duy lý ca Descartes. Nhng ch duy lý, duy tín, duy li là nhng thut ng riêng ca tác gi.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013


TÍNH PHÁP LÝ CỦA QUYỀN LỰC

KS Nguyễn Văn Thạnh
Chính trị hà khắc dữ hơn cả hổ:
Một lần Khổng Tử đi qua Thái Sơn, thấy có người phụ nữ ở trước nấm mồ khóc lóc vô cùng thảm thương. Ông bèn bảo Tử Lộ ra hỏi nguyên nhân, người phụ nữ ấy nói: "Bố chồng bị hổ ăn thịt, chồng bị hổ ăn thịt, bây giờ con trai cũng chết trong miệng hổ, thì không đau lòng sao được?". Khổng Tử hỏi: "Sao các ngươi không dọn đi ở chỗ khác ?". Người phụ nữ nói: "Ở đây không có chính trị hà khắc, không có áp bức nên bị hổ ăn thịt cũng không dọn đi". Khổng Tử nghe xong nói với các học trò của mình: - Các trò hãy nhớ lấy: “Chính trị hà khắc dữ hơn cả hổ”.
Từ khi con người sống thành xã hội thì tất yếu sinh ra chính quyền để quản lý xã hội. Nhờ có chính quyền mà xã hội không còn cảnh loạn lạc, đâm chém, cướp bóc tranh đoạt lẫn nhau; cuộc sống bình yên và phát triển. Tuy nhiên, như hai mặt của một con dao, chính quyền cũng chính là nguồn cơn gây đau khổ và tai họa cho con người nhất. Xưa nay kẻ thù lớn nhất của con người là chính mình, độc tài và cường quyền là vấn nạn của lịch sử nhân loại. Bao cuộc chiến tranh đẫm máu, bao cuộc thanh trừng tàn khốc, bao cuộc diệt chủng man rợ cũng từ quyền lực của chính quyền gây ra. Nếu không có quyền lực chính trị thì con người cũng chỉ có thể giết nhau ở qui mô cá thể hoặc nhóm nhỏ, chính quyền lực chính trị mà con người tàn sát nhau, bức hại nhau ở qui mô lớn lên đến hàng chục triệu nhân mạng.
Danh chính ngôn thuận trong quyền lực chính trị:
Tại sao trong xã hội có người có quyền ký quyết định điều hàng ngàn người ra chiến trường, ký giấy tuyên án tử hình người này, bắt giam người khác? Quyền lực của họ có là do đâu?  Quyền lực người đó có được gọi là quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là thứ rất nguy hiểm, do vậy không phải ai muốn có là có. Nó cần phải có tính chính danh. Xưa các vị đế vương đánh nhau đẫm máu để thâu tóm quyền lực, tuy nhiên để có thể cai trị cũng cần phải có danh chính, ngôn thuận. Nếu không có tính chính danh thì quyền lực sẽ lung lay dù có dùng bạo lực để đàn áp.
Tính chính danh của quyền lực cũng có tính lịch sử. Nó đi từ ngộ nhận đến khoa học. Từ ngộ nhận là quyền lực đến từ siêu nhiên như Chúa Trời (phương Tây) hay Con Trời (phương Đông) đến khoa học là quyền lực đến từ nhân dân. Ngày nay, mọi quyền lực chính trị, muốn có chính danh đều phải được người dân ủy quyền, tức là phải được người dân bầu. Cũng vì lý do này mà hiện nay bầu cử trở thành bắt buộc đối với các chính thể nắm quyền. Một chức vụ nào đó nếu không do dân bầu (bầu trực tiếp hoặc qua đại biểu) thì đều không có tính chính danh, tức là phi pháp. Nhân đây có câu hỏi pháp lý cho các nhà lập pháp ở VN là “ông Tổng bí thư lấy danh nghĩa gì để là nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo toàn dân khi mà chức vụ của ông không do dân bầu” (tổng bí thư là chức vụ có thực quyền đứng đầu hệ thống chính trị nước ta)?
Chúng ta thấy ở các nước quân chủ lập hiến như Anh hay Nhật, hoàng gia vẫn theo kiểu cha truyền con nối, không do dân bầu, tuy nhiên họ cũng chỉ có quyền lực tượng trưng chứ không có thực quyền. Vị trí họ có được và dành được sự kính trọng của dân chúng là vì công lao to lớn của gia tộc đó trong buổi ban sơ kiến thiết đất nước, đưa dân tộc đến con đường của thịnh vượng.
Khi quyền lực không chính danh, rất nguy hiểm:
Lịch sử cho thấy, khi tính chính danh (khoa học) của quyền lực không có thì sẽ có việc tranh nhau quyền lực. Lịch sử chế độ phong kiến từ đông sang tây là lịch sử thăng trầm của sự tranh giành quyền lực giữa các dòng tộc, các tập đoàn thống trị phong kiến. Nhóm người có quyền thì ra sức giữ nó bằng mọi cách: trấn áp đẫm máu, những qui định man rợ kiểu tru di tam tộc, cửu tộc,…Nếu quyền lực nhà nước được xây dựng đúng cơ sở khoa học pháp lý là “sự ủy quyền của người dân”  thì xã hội sẽ ổn định, không có chuyện tranh giành quyền lực, bạo động đổ máu. Do vậy một cuộc bầu cử tự do, công bằng, minh bạch và một nền truyền thông tự do không bị kiểm duyệt luôn là nền tảng để sự ủy quyền được thực hiện đầy đủ và đúng đắn. Bên cạnh đó quyền tự do thành lập hội, tự do thành lập tổ chức chính trị, quyền ứng cử, vận động tranh cử và quyền được bầu cử tự do không theo kiểu bày sẵn “đảng cử dân bầu”,….là cơ sở cho tính hợp pháp của quyền lực chính trị.
Quyền lực có một thuộc tính là sinh ra từ đâu thì phục vụ tại đó, nếu nó sinh ra từ nhân dân thì phục vụ cho nhân dân, sinh ra từ đảng phái thì phục vụ cho đảng phái, sinh ra từ phe nhóm thì phục vụ cho phe nhóm. Điều này giải thích vì sao trong các chế độ độc tài hay chuyên chế thì người nắm quyền bảo vệ quyền lợi đảng phái, phe nhóm hơn là phục vụ cho lợi ích nhân dân. Chính quyền nằm trong tay một nhóm nhỏ thì đất nước sẽ là của nhóm thiểu số. Khi đó nó sẽ sinh ra những con quái vật tham nhũng, lạm quyền. Đây là vấn nạn của tất cả các nước nghèo nàn, lạc hậu, độc tài chuyên chế.
Hiện trạng Việt Nam:
Nền chính trị Việt Nam hiện nay do một đảng duy nhất là ĐCS lãnh đạo. Trên thực tế, chính phủ Việt Nam vẫn được xây dựng qua cuộc bầu cử, dân bầu đại biểu, đại biểu bầu chính phủ. Tuy nhiên nó mang tính trình diễn (dân chủ giả hiệu) hơn là thực chất, vì tất cả các yếu tố đi kèm để bảo đảm sự ủy quyền thực sự từ người dân không có. Nguyên tắc “đảng cử-dân bầu” đã phá hỏng tính pháp lý của bầu cử tự do; chưa nói tổ chức bầu cử, kiểm phiếu và công bố kết quả cũng do đảng nắm.
Tất cả những chức vụ đã được quyết định từ khi đại hội Đảng. Đại hội Đảng bầu xong, Ban Chấp hành Trung ương cử ra Bộ Chính trị và Bộ Chính trị cử ra những cầm quyền, còn Quốc hội chỉ làm một công việc là hợp thức hóa những gì Đảng đã sắp đặt. Thêm nữa Quốc hội do Đảng sắp xếp trước rồi người dân bầu lên (đảng cử-dân bầu), cho nên Quốc hội này cũng là Quốc hội của Đảng.
Vì lý do đó mà người dân không có một tác động gì vào bộ máy lãnh đạo. Quyết định người nào làm chức gì do Bộ Chính trị chứ không do dân tác động được. Đó chính là vấn đề căn bản của thể chế Cộng sản.
Có người biện luận cho quyền lực độc tôn của ĐCS hiện nay là do công trạng trong chiến tranh, nếu như vậy thì chế độ hiện nay là một biến thể kéo dài của chế độ phong kiến, nơi các triều đại cũng được dựng lên từ chiến tranh, sự khác biệt là chế độ phong kiến có tính cha truyền con nối trong dòng tộc còn nay là trong “đảng tộc”.
Có người biện luận ĐCS là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước vì ĐCS là lực lượng chỉ có một lý tưởng duy nhất là trung thành với lợi ích của nhân dân, đất nước. Nói vậy thì những người này không hiểu về vấn đề tự xưng và thủ tục pháp lý trong cuộc sống. Có thể bạn là một người hiền lành, tử tế và nổi tiếng, tuy nhiên khi ở khách sạn bạn phải có nghĩa vụ trao giấy CMND cho chủ khách sạn, đây là thủ tục pháp lý bắt buộc để quản lý an ninh. Ở một số nước như Nhật, Singapore,….một đảng có thể liên tục lãnh đạo đất nước trong hơn nửa thế kỷ, mang lại nhiều thành tựu to lớn cho đất nước; tuy nhiên họ cũng phải làm thủ tục pháp lý là nhận được được sự ủy quyền của nhân dân theo định kỳ. Họ không thể nói “tôi lãnh đạo rất tốt, hãy để tôi lãnh đạo luôn, không cần các đảng phái khác vì gây ra tranh giành quyền lực, bất ổn cho đất nước” hay “tôi có công làm cho đất nước phát triển đến siêu cường, nay tôi có quyền lãnh đạo mãi mãi”. Hay đặc biệt hơn nhân lúc đảng họ mạnh chiếm đa số trong quốc hội, họp lại thay đổi hiến pháp, qui định hẳn điều 4 chẳng hạn để họ có quyền lãnh đạo duy nhất, mãi mãi.
Ở các nước quyền lực người đứng đầu (tổng thống hoặc thủ tướng) được xây dựng từ dân, được quốc dân bầu ra, khi phạm sai lầm nghiêm trọng dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ kinh tế, gây nợ nần cho dân thì sẽ tự động từ chức, vì nếu không từ chức thì cũng sẽ bị đại diện của dân phế truất. Còn ở ta thì thủ tướng có thể vin vào cớ theo đảng 51 năm, không xin chức tước, đảng phân công công việc thì chấp hành để không từ chức dù kết quả điều hành thì yếu kém; gây ra cho quốc dân đồng bào là hàng trăm ngàn tỷ nợ nần.
Việt Nam hiện nay không chỉ khủng hoảng kinh tế mà còn có một cuộc khủng hoảng khác là khủng hoảng về tính pháp lý của quyền lực. Dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất qua cuộc bầu cử trình diễn “đảng cử -dân bầu”, rõ ràng quyền lực chính trị không thể nằm ở nhân dân, nó nằm ở tổ chức đảng. Một tổ chức chỉ có 3 triệu người trên 90 triệu dân.
Để có một nhà nước thật sự của dân và vì dân, để đất nước phát triển tốt đẹp, chúng ta cần phải xây dựng quyền lực nhà nước đúng trên cơ sở pháp lý và khoa học, chỉ có như vậy quyền lực sinh ra từ dân và quay lại phục vụ nhân dân thay vì phục vụ một nhóm nhỏ lợi ích hưởng lợi như ta thấy.
Lịch sử tiến đến văn minh cũng là lịch sử tiến đến tính khoa học của quyền lực chính trị. Chúng ta thấy một chiếc máy bay nặng hàng chục tấn, có thể bay vút lên cao hàng chục km, mang hàng trăm người đi xa hàng ngàn km cũng vì nó hoạt động đúng qui luật, nếu không đúng các qui luật, nguyên lý khoa học nó sẽ bị rơi theo trọng lực và gây ra thảm họa. Quyền lực chính trị cũng vậy, nếu được xây dựng đúng đắn thì nó sẽ phát huy đem đến quốc thái dân an, xã hội thịnh vượng, nếu xây dựng trên nền tảng sai, phi pháp thì nó sẽ gây ra bao thảm cảnh cho nhân dân đất nước: lũng đoạn, tham nhũng, đói nghèo, lạc hậu. Trên bước đường tiến đến văn minh, dân tộc nào sớm xây dựng quyền lực chính trị phù hợp với qui luật khoa học thì xứ đó sớm có văn minh, thịnh vượng.
Giải pháp thúc đẩy tính chính danh của quyền lực ở nước ta:
Làm cho người dân hiểu nguồn gốc, tính pháp lý của quyền lực:
Khi quốc dân đồng bào biết được quyền lực chính trị có nguồn gốc từ đâu, và như thế nào thì hợp pháp, chính danh thì không tổ chức nào có thể lũng đoạn quyền lực đất nước phi pháp được. Trong quá trình dân chủ hóa đất nước, có vô số công việc phải làm, một trong những việc quan trọng là tuyên truyền để người dân biết thế nào là một quyền lực chính danh, thế nào là một quyền lực phi pháp.
Chúng ta thấy rằng, ngày nay nếu một viên tướng nào đó dùng quân đội để đảo chính, cướp chính quyền rồi nhân danh thiên tử hay viện lý do dẹp loạn để cai trị sẽ không bao giờ còn có thể xảy ra được. Vì sao vậy? Vì toàn dân đã biết rằng quyền lực đến từ sự nhân danh như thế là tào lao. Ngày nay sự tào lao nó không thể trắng trợn như thế mà nó tinh vi, chỉ có tầng lớp tinh hoa trí thức mới thấy rõ. Nhiệm vụ của họ là vạch trần, cạo bỏ lớp sơn trình diễn để nhân dân biết được sự thật. (Slogan tranh đấu có thể là “dân không bầu thì không có quyền”)
Muốn ngăn chặn thâu tóm quyền lực hữu hiệu và thực hiện dân chủ chân thực, không ai khác chính người dân phải làm. Xây dựng nền dân chủ, bảo vệ nền dân chủ và hưởng lợi từ nền dân chủ không ai khác ngoài nhân dân. Người dân chỉ có thể làm được việc trên khi họ có sự hiểu biết đầy đủ.
Chặn các bổng lộc sinh ra từ quyền lực:
Tại sao con người tranh giành quyền lực? Tại vì có quyền lực là có bổng lộc. Ai không muốn có bổng lộc? Ai không muốn giàu sang? Ai không muốn vinh qui bái tổ? Ai không muốn gia đình, dòng họ rạng rỡ, phồn vinh?....Do vậy để chấm dứt sự tranh giành quyền lực thì một mặt chúng ta phải tranh đấu để nguồn gốc phát sinh quyền lực phải đảm bảo tính khoa học, có tính chính danh của nó, mặt khác chúng ta cũng phải đấu tranh để ngăn chặn các loại bổng lộc có được từ quyền lực. Để khóa các vòi dẫn bổng lộc đến cái ghế quyền lực, chúng ta cần đấu tranh dứt khoát, không khoan nhượng cho sự minh bạch của người cầm quyền, xem sự  tự minh bạch là một điều kiện tiên quyết để cầm quyền. Chúng ta phải buộc quan chức khai báo tài sản, danh tính vợ con. Rõ ràng trong căn phòng tối thì chuột bọ cùng nhau tha đồ chạy thoải mái, còn nếu phòng tràn ngập ánh sáng thì chuột bọ sẽ không còn đường trốn. Chúng ta cần siết lại trách nhiệm của người lãnh đạo, làm sai phải từ chức ngay (sai về đường lối) hoặc phải bồi thường (sai về chấp pháp). Minh bạch và giảm chi tiêu công tối đa, giải thể các loại doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta phải làm cho chiếc ghế quyền lực là nơi không có gì để gặm và kém hấp dẫn đi.
NVT