Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

Vén bức màn văn minh tiền sử


Vén bức màn văn minh tiền sử:
(Phần 2) Dấu chân tiền sử 

Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

I. Dấu chân tiền sử
I.1 Dấu chân tiền sử


Posted Image
Dấu chân tiền sử trên khối hóa thạch bọ ba thùy

Thuyết Tiến hóa hiện tại đang bị thách thức khi các nhà khảo cổ hàng đầu thế giới có được những phát hiện mang tính đột phá căn bản. Các nhà khảo cổ chuyên nghiệp và nghiệp dư đang tiến bước, và sau đó đưa ra những nghi ngờ về Thuyết Tiến hóa đã được công nhận rộng rãi. Những dấu vết và các khối hóa thạch người của các thời đại địa chất xa xưa đã được phát hiện trên toàn thế giới, và điều này có thể cách mạng hóa các lý thuyết hiện đại về sự tiến hóa của loài người. Những khám phá như vậy thu hút việc xem xét lại các học thuyết liên quan đến lịch sử phát triển của loài người.

W
illiam J. Meister, một người Mỹ, là người thu thập hóa thạch nghiệp dư đầy khao khát, và đã tiến hành một khám phá kinh ngạc vào ngày 01 tháng Sáu năm 1968. Tại Antelope Springs, khoảng 43 dặm về phía Tây Bắc của Delta, tiểu bang Utah, một nơi giàu hóa thạch, Meister đã tìm thấy một tảng đá lớn với một vết chân người. Vết chân này, tuy nhiên, có vẻ như được tạo ra bởi một chiếc dép (xăng đan). Chiếc dép đo được 10 inch (khoảng 26 cm) chiều dài, lòng bàn chân rộng 3 inch (hay 8,9 cm) và gót chân có chiều rộng 3 inch (hay 7,6 cm). Gót chân có vẻ xấp xỉ 1/8 chiều dày (hay 1,7 cm). Ngạc nhiên thay, ông cũng tìm thấy Tam diệp trùng (bọ ba thùy) ngay trong dấu chân ấy.
Xin lưu ý rằng Tam diệp trùng là một loài sinh vật biển nhỏ, tồn tại trong khoảng từ 260 đến 600 triệu năm trước, và điều này là một dấu hiệu cho thấy khám phá này có giá trị đối với nguồn gốc của cuộc sống con người thời tiền sử. Phát hiện này rất có thể sẽ bác bỏ Thuyết Tiến hóa đang thịnh hành ngày nay.
So sánh khám phá này với giày dép của thời kỳ hiện nay, chúng ta có thể nhận thức được rằng một nền văn minh nào đó đã từng tồn tại khoảng 600 triệu năm trước, và nó phải có một độ phức tạp nhất định. Các hàm ý thực sự của phát hiện này chắc chắn là khó hiểu. Chẳng phải là các nhà sử học hiện đại nên cân nhắc lại Thuyết Tiến hóa hiện nay hay sao? Chẳng phải là những khám phá như vậy cho thấy một con đường khác của sự phát triển nhân loại hay sao?

Posted Image 
Năm 1968, khối hóa thạch với dấu vết giày bên trên một Tam diệp trùng (bọ ba thùy), sinh vật tồn tại từ 600-260 triệu năm trước đã được khám phá bởi chuyên gia hóa thạch nghiệp dư Meister. (Ảnh được đăng với sự cho phép của Henry Johnson)

Trên thực tế, những mối nghi ngờ đã tồn tại trong Thuyết Tiến hóa hiện đại trong suốt thế kỷ 19. Tạp chí Khoa học Mỹ, trong các báo cáo ở tập 5 có đăng nhiều dấu chân hóa thạch được bảo quản rất đẹp, những dấu chân đã được phát hiện bên bờ sông Mississippi của St Louis, trong một khu vực giàu đá vôi, bởi một nhà thám hiểm người Pháp. Các nhà thám hiểm đã báo cáo rằng mỗi dấu chân hiện rõ các đường cong cơ thịt của lòng bàn chân con người. Những khám phá bổ sung được cung cấp trong tài liệu ở tập 7 (trang 364-367, 1885) của Tạp chí Nghiên cứu Di tích Văn hóa Cổ của Hoa Kỳ. Trên cùng bờ sông Mississippi, một dấu chân sâu 1 foot và dài 2 feet, có lẽ được tạo thành bởi một cuộn giấy, cũng đã được tìm thấy. Tất cả những phát hiện này đã được xác định niên đại bằng các kỹ thuật phân rã phóng xạ (tiếp theo 1885 – Sách đã dẫn) và được khám phá là có niên đại xấp xỉ 345 triệu năm. Những khám phá nhân chủng học như vậy đã mạnh mẽ đề xuất rằng cuộc sống con người đã có lâu hơn so với điều mà Thuyết Tiến hóa ngày nay chỉ ra. Hơn nữa, những phát hiện đó cho thấy rằng những nền văn minh loài người tương đương – hoặc tiến bộ hơn – xã hội ngày nay đã từng tồn tại hơn 100 triệu năm trước.

Các khám phá khảo cổ đáng kinh ngạc khác đã được báo cáo ở Mỹ. Năm 1927, một nhà địa chất học nghiệp dư đã tìm thấy, trong đá vôi thuộc kỷ Triat tại hẻm núi Fisher thuộc tiểu bang Nevada, một vết in của chiếc giày hóa thạch, ngạc nhiên thay, cũng có một gót chân bị gãy rời ra hoàn toàn. Phương pháp xác định niên đại bằng phóng xạ các-bon cho thấy nó có tuổi khoảng 225 triệu năm. Thật bất ngờ, khi di chỉ gần đây được xem xét lại thông qua kỹ thuật chụp ảnh qua kính hiển vi đã cho thấy phần da trên chân đế đã được khâu vào nhờ hai hàng len, chính xác là cách nhau 1/3 inch. Một kỹ thuật làm giày như vậy đã không hề tồn tại vào năm 1927. Hub Samuel, giám đốc danh dự Bảo tàng Khảo cổ tại Oakland, California, đã tuyên bố trong một quan điểm về phát hiện này rằng “Người thời đại hiện nay (năm 1927) trên trái đất còn chưa thể làm ra loại giày này. Việc nhìn vào loại chứng cứ này cho thấy rằng tại thời điểm mà được cho là của những động vật chân đốt còn chưa được khai hóa, từ hàng triệu năm trước, những người có trí thông minh cao dường như đã từng tồn tại … … ”

Posted Image 
Hình ảnh phóng lớn của dấu vết giày với một Tam diệp trùng ở góc trên bên trái (Ảnh được đăng với sự cho phép của bảo tàng Creation Evidence)


Hai Tao, một chuyên gia hóa thạch nổi tiếng của Trung Quốc, đã tìm thấy một hóa thạch trông như một dấu giày của con người tại Núi Đỏ ở thành phố Urumqi, thuộc tỉnh Tân Cương, Trung Quốc. Hóa thạch này được xác định có niên đại khoảng 270 triệu năm về trước. Chiếc giày có chiều dài khoảng 26 cm, lớn hơn ở phần ngón chân và hẹp hơn ở phần gót chân. Một dấu vết in đường may gấp đôi cũng có thể quan sát được. Phía bên trái của giày in rõ ràng hơn phía bên phải, và độ sâu của vết in có vẻ nông ở giữa và sâu hơn về hai đoạn cuối, cho ấn tượng về một vết in của chiếc giày trái. Khi vết giày này được so sánh với một cái khác được tìm thấy tại hẻm núi Fisher ở Mỹ, nó đã được gọi là “huyền thoại Opatz” của Tân Cương (cho thấy rằng di chỉ này không phù hợp với thời kỳ địa chất). Giả thuyết của Hai Tao được trình bày trong Tạp chí Khoa học Địa chất (Journal of Geographic Science) rằng “huyền thoại Opatz” là một hiện tượng cho lý do để tin tưởng vào một đợt di trú lớn trong khoảng thời gian đó.
Cùng với những khám phá về dấu chân người có niên đại vài trăm triệu năm, cho đến những khám phá về cuộn giấy cổ xưa, cũng như các hóa thạch dấu chân khủng long, nhiều vết chân và vết giày hơn nữa đã được phát hiện trong những năm 1970 tại Thung lũng Carrizo ở Tây Bắc Oklahoma. Những dấu tích này xuất hiện trong cả sự hình thành Morrison lẫn đá sa thạch Dakota, chúng có niên đại khoảng 155 đến 100 triệu năm tuổi. Những dấu giày này được xác định rõ ràng hơn, và cho thấy người đeo chúng có kích thước cao hơn mức bình thường, với vết in trung bình dài 20 inch và 8 inch xương bánh chè. Những dấu chân trần bị ăn mòn một ít, nhưng cho thấy bằng chứng của dải áp lực xác định. Một số rất gần với dấu vết khủng long.
Nhưng những dấu chân không đúng chỗ cũng được tìm thấy tại các khu vực khác. Nhà nhân chủng học người Mỹ “, quyển IX (1896), trang 66, mô tả các phát hiện của một dấu vết con người hoàn hảo in trong đá khoảng 4 dặm về phía Bắc của Parkersburg, ở bờ Tây Virginia của sông Ohio. Dấu tích dài 14 1/2 inch và được in vào trong một tảng đá lớn. Mặc dù vài đặc điểm đã được đưa ra, một chuyên gia đã tính toán từ loại đá được mô tả, từ vị trí của nó trên bờ sông, và thấy rằng dấu tích phải có ít nhất 150 triệu năm tuổi, theo cách xác định niên đại địa chất hiện đại. Những dấu vết người khổng lồ như vậy cũng được tìm thấy trong các nơi khác. Dấu chân dài 14 inch đã được tìm thấy ở Virginia. Vết tích người khổng lồ với mỗi dấu chân dài khoảng 35 inch đã được tìm thấy trong đá sa thạch ở Kansas. Kích thước của những dấu chân này lớn hơn nhiều so với dấu chân của con người ngày nay, và tất cả các dấu chân đều có 1 triệu năm tuổi.
Với những phát hiện về các dấu chân này, đã là đủ để đặt dấu hỏi cho toàn bộ Thuyết Tiến hóa của Darwin, và cách mạng hóa các quan điểm hiện thời về lịch sử sinh học. Thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là các nhà khoa học đã khám phá ra các di chỉ với hơn vài trăm triệu năm tuổi, những thứ đã tiết lộ công nghệ tiên tiến và nền văn minh của nhân loại vào thời điểm đó.

Trong chương kế tiếp, chúng tôi sẽ giới thiệu một số phát hiện khảo cổ học của các công nghệ cổ đại. 
Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 3)
Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ tiền sử

Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

I.2 Công nghệ nung chảy và các hoạt động khai mỏ thời tiền sử:
Chiếc bình kim loại 100.000 năm tuổi

Vào tháng 6 năm 1851, Tạp chí Scientific American (quyển 7, trang 298-299), đã đăng một bài viết từ đoạn sao lục ở Boston, trong đó công bố về hai phần của một chiếc bình kim loại được tìm thấy sau khi cho nổ một khối đá cứng tại Meeting House Hill ở Dorchester, Massachusetts. Khi hai phần của chiếc bình được ghép lại, nó tạo thành một chiếc bình hình chuông có chiều cao khoảng 4 ½ inch, 6 ½ inch ở đáy, 2 ½ inch trên đỉnh, và dày khoảng 1/8 inch. Phần vỏ kim loại của bình được cấu tạo bởi thứ hợp kim giữa kẽm và một phần lớn của bạc. Trên vỏ bình có sáu bó hoa khảm bằng bạc tinh khiết, và xung quanh phần bên dưới là môt cành nho hoặc vòng hoa cũng được khảm bằng bạc. Công việc chế tác, khắc, và khảm một cách tinh xảo này đã được thực hiện bởi một vài nghệ nhân không tên tuổi. Và điều đặc biệt là nó đã được tìm thấy dưới một khối đá lớn (một dạng đá trầm tích) ở độ sâu 15 feet dưới mặt đất. Niên đại được ước tính là khoảng 100.000 năm tuổi. Chiếc bình này đã được chuyển từ viện bảo tàng này sang viện bảo tàng khác để trưng bày, và cuối cùng thật không may, nó đã bị biến mất.

Posted Image
Giá đỡ nến?

Tạp chí Scientific American vào tháng 6 năm 1851 đã công bố một bài báo về chiếc bình kim loại được tìm thấy dưới một khối đá cứng tại Meeting House Hill, Dorchester, Massachussets. Khối đá bao bọc chiếc bình được ước tính khoảng 100.000 năm tuổi.


Một chiếc bu-gi điện có từ 500.000 năm trước?

Vào ngày 13 tháng 2 năm 1961, ba nhà khảo cổ học – Mike Mikesell, Wallace Lance, và Virginia Maxey – đã thu thập đá hốc tinh ở một địa điểm cách phía đông-nam Olancha, California khoảng 12 dặm. Đá hốc tinh (Geode – đá từ núi lửa) là một loại đá dạng cầu rỗng ruột với cấu trúc dạng tinh thể. Trong ngày đặc biệt đó, khi đang tìm kiếm tại dãy núi Coso, họ đã tìm thấy một hòn đá nằm ngay gần đỉnh núi có độ cao khoảng 4.300 feet so với mực nước biển và 340 feet trên đáy hồ Owens. Họ nhặt nó lên và cứ nghĩ rằng đó là một loại đá hốc tinh, nhưng sau đó họ phát hiện ra rằng không phải, bởi vì nó mang dấu vết của vỏ hóa thạch.
Ngày hôm sau, khi Mikesell cắt một nửa hòn đá đó ra, ông gần như đã phá hỏng viên kim cương 10 inch khi cưa nó, hòn đá không hề có cấu trúc tinh thể mà là một thứ gì đó thật bất ngờ. Bên trong đó là một loại thiết bị cơ khí gì đó. Bên dưới lớp đất sét cứng ngoài cùng, sỏi và hóa thạch là một lớp hình lục giác được cấu tạo bằng gỗ mềm dạng mã não hoặc thạch anh. Một lớp vỏ cứng bao quanh lõi hình trụ, có đường kính khoảng ¾ inch, được làm từ gốm hoặc sứ đặc màu trắng. Ở trung tâm của lõi trụ là thanh kim loại rộng khoảng 2 mm, sáng bóng và có mạ đồng. Thanh trụ này, các nhà địa chất đã phát hiện ra rằng đó là một dạng có từ tính, và sau rất nhiều năm bị phơi ngoài không khí, nhưng nó không hề có dấu hiệu của sự oxy-hóa. Đồng thời, bao quanh ống trụ bằng men sứ là những chiếc vòng đồng đã bị ăn mòn. Bị gắn sâu vào trong đá, ngoài chiếc ống trụ kia, còn có thêm hai mẫu vật nữa giống như là một chiếc đinh và một chiếc máy giặt.
Các nhà địa chất đã gửi những gì họ tìm thấy tới Hội Charles Fort, nơi chuyên nghiên cứu những điều khác thường. Hội này đã dùng tia-X chiếu vào vật thể hình trụ kia để nghiên cứu các hóa thạch trong đó, và phát hiện ra những chứng cứ để xác nhận rằng đó thực sự là một thiết bị cơ khí. Tia-X đã cho thấy thanh kim loại bên trong kia đã bị ăn mòn ở một đầu, nhưng đầu còn lại có thể được làm từ một thứ vật chất dạng kim loại xoắn. Tóm lại, “đồ tạo tác ở Coso” được tin là một phần của thứ gì đó giống một chiếc máy cơ khí. Phần trục bằng sứ và kim loại được tạo hình cẩn thận này, với những thành phần được làm bằng đồng, gợi ý rằng nó là một dạng thiết bị điện nào đó. So sánh với những thiết bị hiện đại, các nhà nghiên cứu cho rằng nó rất giống một dạng bu-gi đánh lửa. Tuy nhiên, phần đường cong bằng kim loại thì không giống với bất cứ loại bu-gi nào hiện nay. Một nhà địa chất chuyên nghiệp đã kiểm tra mẫu đá trong thiết bị và thấy rằng nó có niên đại vào khoảng 500.000 năm tuổi.

Chiếc đinh sắt gẫy hơn 1 triệu năm tuổi
Tờ Illinois Springfield Republican đưa tin vào năm 1851: Một doanh nhân tên là Hiram de Witt đã mua lại một mảnh thạch anh chứa vàng có kích thước khoảng bằng bàn tay của một người đàn ông sau chuyến đi tới California, và trong khi cho người bạn xem mảnh đá, nó đã bị trượt từ tay của ông và rơi xuống sàn nhà. Khi đó, ở giữa của miếng thạch anh để lộ ra là một chiếc đinh gẫy, có kích thước của đồng 6 penny, đã bị ăn mòn nhẹ, nhưng hoàn toàn thẳng và có một chiếc đầu đinh hoàn hảo. Miếng thạch anh này có niên đại hơn 1 triệu năm tuổi.

Chiếc đinh vít kim loại hơn 21 triệu năm tuổi
Năm 1865, một chiếc đinh vít kim loại dài 2 inch đã được tìm thấy trong một mẫu khoáng vật được khai quật từ các mỏ vàng ở thành phố Treasure, Neveda. Chiếc đinh vít đã bị oxy-hóa từ lâu nhưng vẫn giữ nguyên được hình dạng – đặc biệt là hình dạng các đường xoắn của nó – có thể nhìn rất rõ từ mẫu khoáng vật. Mẫu vật này được ước tính có niên đại khoảng 21 triệu năm tuổi.

Chiếc móng nhân tạo hơn 40 triệu năm tuổi
Năm 1844, Ngài David Brewster đã gửi một báo cáo tới Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Anh quốc, và gây ra một chấn động trong giới khoa học. Một chiếc móng, rõ ràng là nhân tạo, đã được tìm thấy với một nửa bị gắn sâu vào một khối đá sa thạch được khai thác từ khu mỏ Kindgoodie gần Inchyra, miền Bắc nước Anh. Nó đã bị ăn mòn rất nhiều, nhưng dù sao vẫn nhận dạng được. Miếng sa thạch này được xác định có niên đại ít nhất 40 triệu năm tuổi.

Một sợi dây chuyền vàng được tìm thấy trong đống than đá hơn 300 triệu năm tuổi

Vào ngày 9 tháng 6 năm 1891, bà S.W.Culp tại Morrisonvile, Illinois, khi đang xúc than cho vào bếp lò thì một cục than lớn vỡ thành hai mảnh và một sợi dây chuyền vàng ở chính giữa đã rơi ra. Sợi dây chuyền dài khoảng 10 inch, làm bằng vàng 8 carat và nặng cỡ 8 đồng xu penny, được mô tả giống như một dạng “đồ cổ tinh xảo”. Vào ngày 11 tháng 6, thời báo Morrisonvile Timesloan tin các nhà điều tra đã chứng minh rằng sợi dây chuyền không chỉ đơn giản là tình cờ rơi vào than. Một phần của than đã bám vào sợi dây chuyền, trong khi phần bị tách rời khỏi nó vẫn mang dấu ấn của chỗ mà sợi dây chuyền đã bị bọc. Tờ báo chỉ nói: “Đây là một thứ dành cho những sinh viên thuộc ngành khảo cổ học, những người muốn bị mệt đầu bởi sự cấu thành địa chất của Trái đất, và luôn tò mò về những điều cổ xưa”. Trong trường hợp này, vật “gây tò mò” bị “rơi ra” từ một viên than đá có từ Kỷ Pennsylvanian – và nó đã có hơn 300 triệu năm tuổi.

Chiếc nồi sắt ở trong một khúc than có từ 300 tới 325 triệu năm tuổi

Một khám phá tương tự đã xảy ra tại Oklahoma. Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma, khi đang xúc than cho vào lò, đã sử dụng nhiên liệu được khai thác gần Wilberton. Có một khúc than quá lớn và không thể cầm được, cho nên hai người thợ đã dùng búa để đập nó ra. Khi khúc than vừa bị vỡ, hai người thợ đã nhìn thấy một chiếc nồi sắt trong đó. Khi chiếc nồi rơi ra từ khúc than, khuôn của nồi có thể nhìn thấy từ các mảnh của khúc than. Vài chuyên gia sau đó đã kiểm tra than bao quanh nồi, và xác định rằng nó đã được hình thành từ 300 tới 325 triệu năm trước.

Posted Image
Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma đã phát hiện ra một chiếc nồi sắt nằm bên trong một khúc than có niên đại từ 300 tới 325 triệu năm tuổi.
(Ảnh chụp bởi: Viện Bảo tàng Bằng chứng Tạo hóa)


Quả cầu kim loại 2,8 tỉ năm tuổi

Những người thợ mỏ tại Klerksdorp ở Nam Phi đã tìm thấy vài trăm quả cầu kim loại ở trong cùng một tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi. Những quả cầu này được khắc các rãnh rất mịn, mà các chuyên gia kết luận rằng chúng không thể được hình thành từ một quá trình tự nhiên.

Posted Image
Các quả cầu kim loại giống như thế này đã được tìm thấy ở Nam Phi, trong cùng môt tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi (Ảnh chụp bởi Roelf Marx)


Hoạt động khai mỏ và luyện kim thời tiền sử
Sau đây là một vài khám phá mà các nhà khảo cổ học cho phép chúng ta hiểu thêm về nền văn minh tiền sử. Những khám phá này như là những cánh cửa sổ nhìn vào quá khứ, cho phép chúng ta quan sát được hoạt động khai mỏ, tinh chế kim loại, và tạo ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người tiền sử.
Năm 1968, Tiến sĩ Koriun Megurtchian người Liên Xô cũ đã khai quật được một di tích, được cho là nhà máy luyện kim cỡ lớn lâu đời nhất trên thế giới, tại địa điểm có tên là Medzamor ở nước cộng hòa Armenia (thuộc Liên Xô cũ). Hơn 4.500 năm trước, những người tiền sử vô danh làm việc tại đó đã có hơn 200 lò nung để sản xuất các loại dụng cụ như lọ, dao, mũi giáo, nhẫn, vòng đeo tay, và một số vật dụng khác. Các thợ thủ công ở Medzamor đeo khẩu trang và đi găng tay khi họ lao động, và những bộ quần áo chuyên dụng của họ được làm bằng đồng, chì, kẽm, sắt, vàng, thiếc, măng-gan và mười bốn loại hợp kim đồng khác. Các lò nung cũng sản xuất một loại sơn kim loại, gạch men và thủy tinh. Các tổ chức khoa học từ Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Đức đã xác nhận rằng một số chiếc kẹp làm bằng thép cao cấp đã được lấy từ các lớp địa chất từ trước thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên.
Vào tháng 7 năm 1969, trên tờ Science et Vie, một phóng viên người Pháp tên là Jean Vidal đã bày tỏ niềm tin rằng những phát hiện này đã chỉ ra một giai đoạn phát triển công nghệ không được biết tới. “Medzamor” ông viết, “đã được thành lập bởi những người xuất chúng của các nền văn minh trước đây. Họ sở hữu những kiến thức có được từ thời xa xưa mà chúng ta không biết tới, và xứng đáng được gọi là ‘khoa học’ và ‘công nghiệp’.”
Ngoài ra, các nhà khảo cổ học người Mỹ đã phát hiện ra những mỏ đồng thời tiền sử tại Isle Royale ở phía bắc Michigan. Thậm chí cả những người thổ dân da đỏ có tổ tiên sống trong vùng đó từ nhiều thế kỷ trước cũng không biết về sự tồn tại của những mỏ này. Những khu mỏ đó đã chứng minh rằng các hoạt động khai mỏ thời tiền sử đã từng tạo ra hàng nghìn tấn đồng, nhưng các nhà khảo cổ học đã không tìm thấy bất kỳ dấu vết định cư lâu dài nào gần các khu mỏ.
Khám phá kỳ lạ nhất là mỏ than Lion tại tiểu bang Utah. Năm 1953, những người thợ mỏ bất ngờ phát hiện ra một đường hầm trong mỏ mà họ chưa từng biết tới. Than trong hầm mỏ đã bị oxy-hóa và mất hết giá trị thương mại – bằng chứng cho thấy hoạt động khai thác mỏ trước đó đã từng được tiến hành trong khu vực này. Vào tháng 8 năm 1953, hai học giả thuộc Khoa Kỹ sư và Nhân chủng học Cổ đại tại Đại học Utah đã điều tra khu mỏ, và tuyên bố rằng những người thổ dân da đỏ ở đây chưa bao giờ sử dụng than. Cả hai mỏ, mỏ đồng tại Isle Royale và mỏ than tại Lion đã chứng minh rằng các thợ mỏ tiền sử đã phát triển các công nghệ khai thác và vận chuyển than tới những nơi xa xôi. [Ban biên tập đã không tìm thấy bằng chứng độc lập xác nhận sự tồn tại của hai mỏ này].
Có một khu vực của các hoạt động khai thác mỏ tiền sử mà các nhà địa chất và nhân chủng học đã cực kỳ quan tâm, nó được phát hiện trong các vỉa đá tại mỏ Pioch Farrus ở Pháp. Từ năm 1786 tới 1788, mỏ đá đã cung cấp một lượng lớn đá vôi để xây dựng lại một tòa nhà Tư Pháp ở địa phương. Thông thường, các thợ mỏ sẽ tìm thấy một lớp bùn nằm giữa các lớp đá. Khi những người thợ mỏ đào đến lớp thứ 11 của đá, tiếp cận độ sâu 12 tới 15 mét dưới lòng đất, thì một lớp bùn đã xuất hiện. Nhưng khi làm sạch lớp bùn này, thì họ đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra các cọc còn lại của những cột đá và những mảnh vỡ, cho thấy rằng đá này đã được cắt và khai thác thác từ trước đó. Đào sâu hơn, họ đã choáng váng khi phát hiện ra tiền xu, tay cầm bằng gỗ của một chiếc búa sắt đã hóa thạch, và các công cụ bằng gỗ khác đã hóa đá. Cuối cùng, họ phát hiện ra một tấm ván đã hóa đá và bị vỡ thành từng mảnh. Sau khi các mảnh vỡ được ghép lại với nhau, nó đã thể hiện chính xác loại ván đã được sử dụng bởi các thợ mỏ; hơn thế nữa, loại ván này chính xác là giống với loại ván đang được sử dụng ngày nay.
Đã có rất nhiều khám phá tương tự trong các khu mỏ tiền sử, và rất nhiều di tích bí ẩn khác đã được khai quật. Nó không chỉ làm dấy lên sự tò mò của con người, mà còn gửi một thông điệp quan trọng tới những nhà khảo cổ học – đây là lúc để đẩy nguồn gốc của nền văn minh nhân loại về một thời kỳ vô cùng xa xưa. 
Vén bức màn văn minh tiền sử:
(Phần 4) Hoạt động hàng không của người tiền sử 
Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

I-3 Hoạt động hàng không của người tiền sử: 
Con người ngày nay nghĩ rằng một người Ý tên là Galileo đã phát minh ra chiếc kính viễn vọng đầu tiên có thể hoạt động được từ khoảng ba trăm năm trước, dựa trên các phiên bản thế kỷ 16, được sản xuất bởi những người sản xuất thấu kính Hà Lan, từ đó đặt nền móng cho các hoạt động thiên văn học hiện đại. Những thấu kính thô sơ từ sớm hơn nhiều đã được tìm thấy tại đảo Crete và vùng Tiểu Á, có niên đại từ năm 2.000 TCN. Những thấu kính hình bầu dục rất tốt, có niên đại tới 1.000 năm tuổi đã được tìm thấy tại một địa điểm của người Viking trên đảo Gotland, có thể chúng được làm bởi những thợ thủ công Byzantine hoặc Đông Âu. Các nhà văn La Mã, Pliny và Seneca đã đề cập tới các thấu kính được sử dụng bởi những thợ chạm khắc. Câu hỏi thực tế là tại sao, từ khi thấu kính được sử dụng thường xuyên để nhóm lửa, phóng to vật thể nhỏ, thậm chí dùng cho kính đeo mắt, và loài người quan tâm đến quan sát các hiện tượng thiên văn hoặc ngắm nhìn bầu trời, thật lâu dài như vậy để tạo ra một kính thiên văn có thể dùng được. Một phát hiện khảo cổ đã cung cấp bằng chứng để tin rằng có lẽ người Châu Âu không phải là những người đầu tiên sản xuất chúng. Viện bảo tàng ICA ở Peru có một tảng đá khắc hình người với niên đại ít nhất 500 năm trước. Điều đáng chú ý của hòn đá khắc đó là hình mô tả một người đang khảo sát bầu trời với một ống kính thiên văn trong tay. Ngoài ra, còn có một thiên thể trong hình khắc, có thể là một ngôi sao chổi với cái đuôi của nó, thứ mà có vẻ như người đàn ông đang quan sát. Một khám phá độc nhất như vậy đã làm lung lay niềm tin hiện đương đại rằng người Châu Âu đã phát minh ra kính viễn vọng vào thế kỷ 16.

http://chanhkien.org/wp-content/uploads/20...4/Maybayco1.jpe

Một tảng đá ở Viện bảo tàng tư nhân của Tiến sĩ Javier Cabrera tại Peru với hình khắc, trong đó một người đàn ông quan sát bầu trời với một kính thiên văn, thứ thường được tin là được phát minh bởi những nhà sản xuất kính đeo mắt Hà Lan.
(Ảnh tặng của labyrinthina.com)

Tiến sĩ Javier Cabrera ở Peru đã thu thập nhiều loại đá khắc như vậy. Ngoài thiên văn học, những đề tài của các bức tranh trên đá của ông bao gồm cấy ghép nội tạng, truyền máu, và săn khủng long, trong số nhiều thứ khác. Rất khó khăn để xác định tuổi của những miếng đá này. Một cuốn lịch sử niên đại của Tây Ban Nha từng đề cập rằng những miếng đá như vậy đã được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ của Đế chế Inca. Từ đó, người ta suy luận rằng những tảng đá chứa thông tin thiên văn học có ít nhất 500 năm tuổi. Nói một cách lô-gíc, những tảng đá miêu tả các sinh vật như loài khủng long có thể là cổ hơn rất nhiều so với niềm tin ban đầu.
Nếu thực sự đó là một kính thiên văn đã được khắc trên tảng đá tại Viện bảo tàng ICA, và các thiết bị đó đã được phổ biến trên toàn cầu, thì điều này có thể giúp các nhà khoa học để hiểu lý do tại sao Dogon, một bộ lạc ở châu Phi, đã phát triển những kiến thức thiên văn học tiên tiến như vậy. Bộ lạc Dogon sống ở khúc quanh lớn của sông Niger tại miền nam Mali, miền tây Châu Phi. Họ sống một cuộc sống chủ yếu là nông thôn và du mục. Không có ngôn ngữ viết, họ truyền đạt kiến thức bằng miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong học thuyết tôn giáo của họ, mà đã được truyền lại trong hơn 400 năm, các nhà thiên văn học đã gọi một ngôi sao là Sirius B, một ngôi sao đồng hành của Sirius, đã được mô tả chính xác. Điều này làm ngạc nhiên những nhà thiên văn học hiện đại.
Sirius B là rất mờ nhạt và vô hình trước mắt của con người. Dựa trên các quan sát ghi lại được bằng cách sử dụng thiết bị hiện đại, các nhà thiên văn đã phát hiện ra Sirius B trong thế kỷ 19. Những người Dogon được cho là đã không hề sở hữu bất kỳ thiết bị công nghệ hiện đại nào, nhưng từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ đã truyền lại những truyền thuyết về Sirius, trong đó bao gồm việc đề cập đến hệ thống Sirius gồm hai ngôi sao. Theo truyền thuyết, ngôi sao nhỏ là rất nặng, và nó quay quanh ngôi sao Sirius theo một quỹ đạo hình elip. Một số người cao tuổi Dogon có thể vẽ quỹ đạo của hai ngôi sao trên mặt đất, và chúng khá tương tự như kết quả tính toán của các nhà thiên văn học hiện đại. Ví dụ này có thể chỉ ra rằng những người Dogon cổ đại đã giữ lại kiến thức của thiên văn học từ rất lâu.
Các mẫu chạm khắc đá ở Peru, giống như các kiến thức thiên văn của người Dogon, hé lộ về kiến thức và kỹ thuật huyền bí mà các nền văn minh trước đây sở hữu. Khoa học hiện đại chỉ có thể khám phá lại kiến thức thu được từ trước đó. Hãy nhìn vào một vài phương thức bay mà người cổ đại đã biết.

Sử dụng máy bay
Các sách Trung Quốc cổ đại ghi lại rằng trong thời Xuân Thu (770-475 TCN), Lỗ Ban đã tạo ra máy bay. Điều này dẫn đến việc Lỗ Ban được công nhận là cha đẻ của tất cả các nghề thủ công. Cuốn Mozi·Luwen viết: “Lỗ Ban cắt tre và gỗ, và làm một con chim bằng gỗ. Nó ở lại trên bầu trời trong vòng ba ngày.” Lỗ Ban cũng đã làm một chiếc diều gỗ lớn để do thám quân địch trong một cuộc chiến tranh. Cuốn Hongshu viết: “Lỗ Ban đã làm một chiếc diều gỗ để do thám các thành phố ở nước Tống.” Bên cạnh đó, Lỗ Ban đã làm một chiếc máy bay chở khách. Theo cuốn Youyang Zazu [Một bộ sưu tập các bài viết từ Youyang] trong thời nhà Đường, Lỗ Ban có một lần làm việc ở một nơi rất xa quê mình. Ông nhớ vợ mình rất nhiều, vì vậy ông đã làm một con chim bằng gỗ. Sau khi được thiết kế lại nhiều lần, chiếc diều làm bằng gỗ đã có thể bay được. Lỗ Ban trở về nhà bằng chiếc diều để gặp vợ và trở lại làm việc vào ngày hôm sau.
Cũng có một ví dụ thú vị ở phương Tây liên quan đến một con chim bằng gỗ. Năm 1898, nhà khảo cổ Pháp Lauret đã đào được một con chim bằng gỗ từ một ngôi mộ cổ Ai Cập ở Saqqara. Nó có niên đại khoảng năm 200 TCN. Bởi vì người dân không có khái niệm ‘bay’ vào thời gian đó, nó đã được gọi là “chim gỗ” và bị bỏ mặc hơn 70 năm trong một Viện bảo tàng ở Cairo. Vào năm 1969, Messiha Khalil, một bác sỹ Ai Cập, người thích làm những mô hình, đã tình cờ thấy được nó. Con chim gỗ này gợi nhớ cho Messiha về những kinh nghiệm ban đầu khi làm các mô hình máy bay của ông. Ông nghĩ rằng nó là không hẳn là một con chim, vì nó không có móng vuốt, không có lông, và không có lông đuôi ngang. Đáng ngạc nhiên, đuôi của nó là thẳng đứng, và nó có phần cánh ngang, đủ điều kiện để nó là một mô hình máy bay. Ông đã làm một bản sao. Mặc dù ông không biết làm thế nào người Ai Cập cổ đại làm cho nó bay, khi ông thử ném các mô hình, ông thấy nó có thể lướt nhẹ. Các thí nghiệm khác cho thấy nó không chỉ có thể lướt nhẹ, mà còn có thể bay như chiếc tàu lượn.

http://chanhkien.org/wp-content/uploads/20...4/Maybayco2.jpe

“Chim gỗ” được tìm thấy trong ngôi mộ cổ Ai Cập, hiện đang được trưng bày ở Viện bảo tàng Cairo
(Ảnh: Dawoud Khalil Messiha)

Sau đó, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng mô hình này rất giống với tàu lượn hiện đại, thứ có thể tùy ý bay trong không khí. Với một động cơ nhỏ, chúng có thể bay ở tốc độ 45-65 dặm/giờ (hoặc 72-105 km/giờ), và thậm chí có thể mang lượng đáng kể hàng hóa. Bởi vì những thợ thủ công Ai Cập cổ đại thường làm các mô hình trước khi xây dựng những đối tượng thực tế, có thể là loại chim bằng gỗ đã từng được sử dụng để vận chuyển, giống như chiếc diều gỗ mà Lỗ Ban đã làm.
Những nghiên cứu hiện đại về máy bay bắt đầu khoảng 200 năm trước. Năm 1903, sau khi anh em nhà Wright hoàn thành chuyến bay có người lái đầu tiên, các lý thuyết hàng không bắt đầu được xây dựng. Tuy nhiên, Lỗ Ban và người Ai Cập cổ đại dường như đã biết cách sử dụng các lý thuyết như vậy từ một thời gian rất lâu trước đây. Điều này đưa ra lý do để xem xét lại lịch sử phát triển văn hoá mà con người hiện đại bây giờ tin vào. Có thể là người cổ đại đã biết nhiều điều hơn người so với người hiện đại tưởng.

Chiếm lĩnh bầu trời
Một khám phá khác thậm chí còn đáng kinh ngạc hơn. Nó chỉ ra rằng lãnh thổ của người xưa có thể đã vượt quá bầu trời, và có thể có ngay cả vươn đến không gian bên ngoài.
Năm 1959, Hoa Kỳ đã nhận được thành công hình ảnh đầu tiên của Trái đất từ một vệ tinh nhân tạo đặt ngoài không gian. Nó không hoàn hảo, nhưng đây là lần đầu tiên con người quan sát Trái đất mà chúng ta sống từ khoảng cách rộng lớn [17.000 dặm]. Kể từ đó, có rất nhiều nghiên cứu khoa học liên quan đến kỹ thuật chụp ảnh bằng vệ tinh. Trong số đó, một bức ảnh địa lý thật sự đáng ngạc nhiên.
Các nhà khoa học đã cài đặt một máy ảnh trên tàu không gian, và nó có thể chụp ảnh thành phố Cairo từ ngoài không gian. Những bức ảnh chụp được cho thấy các cảnh tượng đáng kinh ngạc. Vì ống kính của máy ảnh tập trung vào Cairo, tất cả mọi thứ trong một khu vực lấy trung tâm là Cairo với đường kính 5.000 dặm được trông thấy rất rõ ràng. Tuy nhiên, những thứ bên ngoài 5.000 dặm trở nên mờ đi. Điều này là do Trái đất là hình cầu, các lục địa và vùng đồng bằng bắt đầu mờ và bị bẻ cong khi cách xa trung tâm. Ví dụ, lục địa Nam Mỹ bị dài ra ở trong hình. Các nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho hình ảnh được chụp bởi các phi hành gia từ Mặt trăng. Tuy nhiên, khi các nhà khoa học so sánh các hình ảnh vệ tinh với một bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ cổ đại, họ ngạc nhiên khi thấy sự tương đồng rõ rệt. Các dãy núi trên Nam Cực bị bao phủ bởi băng và tuyết trong hàng trăm năm, và không được vẽ lên bản đồ cho đến năm 1952 bởi các nhà khoa học sử dụng máy dò bằng âm thanh. Tuy nhiên, chúng xuất hiện trên một bản đồ cổ thuộc Đô đốc Piri Reis, một tư lệnh Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, các bản đồ chính xác ghi lại các chu tuyến, kinh độ và vĩ độ cho cả lục địa Châu Mỹ và Châu Phi. Trớ trêu thay, tấm bản đồ này đã được làm vào thế kỷ 16 dựa trên các tấm bản đồ còn cổ xưa hơn.

http://chanhkien.org/wp-content/uploads/20...4/Maybayco3.jpe

Một tấm bản đồ thế kỷ 16 của Đô đốc Piri Reis, chỉ huy hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã ghép nhiều tấm bản đồ cổ với nhau. Nó rất giống với hình ảnh vệ tinh hiện đại.
­http://chanhkien.org/wp-content/uploads/2010/04/Maybayco4.jpe
Bản đồ mô phỏng được đặt tâm điểm tại Cairo.
(Ảnh tặng của 
Adventures Unlimited Press)

Khám phá kinh ngạc này đã khiến nhiều nhà khoa học bị sốc. Sau những nghiên cứu bổ sung, họ đã đưa ra các kết luận sau đây: 1) Tấm bản đồ này được tạo thành bằng cách ghép 6 bản đồ cổ vào với nhau. 2) Tất cả bản đồ cổ đại đã sử dụng cùng một kỹ thuật đòi hỏi kiến thức về hình học phẳng. 3) Những tấm bản đồ cổ được đặt tâm điểm tại Cairo. Khá là rõ ràng là các tấm bản đồ của Đô đốc Piri Reis đòi hỏi công nghệ tiên tiến giống như ngày nay. Tuy nhiên, trước thế kỷ 16, loài người chỉ có thể làm chủ được các kỹ thuật định vị theo thiên văn, và bầu trời rõ ràng nằm ngoài khả năng của họ. Người cổ đại đã sử dụng công nghệ gì để làm ra các tấm bản đồ chính xác như vậy? Có thể họ đã từng đã bay trên bầu trời? 
Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 6) Những di tích dưới đáy đại dương
CHƯƠNG 3: NHỮNG HUYỀN THOẠI VĨNH CỬU

I. Những tàn tích dưới đáy đại dương thách thức quan điểm về lịch sử loài người:

[Chanhkien.org]

Những nghiên cứu đã cho thấy hiện nay các nhà khoa học ước tính rằng trái đất đã được hình thành từ 4,6 tỷ năm trước. Các loài linh trưởng tiền-hominid đã không xuất hiện cho đến Kỷ Pleistocene, kỳ thứ tư của đại Tân Sinh (kỷ thứ ba), là thời kỳ Băng Hà, vào khoảng 1,8 triệu năm trước. Dựa trên các nghiên cứu hóa thạch, một số nhà khoa học tin rằng các hoạt động xã hội và văn hóa đã không xuất hiện cho đến thời kỳ Holocen, khoảng 12.000 năm trước, trong thời gian suy tàn và kết thúc của của kỷ Băng Hà cuối cùng. Vì thế, trong thời gian 7.000 năm tiếp theo, các nền văn hóa đã không phát triển nhiều và vẫn còn ở trong thời kỳ Đồ Đá. Những bản ghi chép về chữ viết và các ký hiệu đầu tiên xuất hiện khoảng 5.000 năm trước. Thời kỳ trước thời gian đó được gọi là thời kỳ Tiền Sử.

Tuy nhiên, trước sự bối rối của các nhà khoa học, ngày càng có nhiều di tích tiền sử được phát hiện dưới đáy đại dương đang thách thức quan điểm này. Những kiến trúc sư của các di tích dưới đáy biển không chỉ có kỹ năng xây dựng khéo léo và nghệ thuật tinh xảo, mà còn cho thấy những dấu hiệu của một văn minh tiên tiến. Hơn nữa, họ biết ngôn ngữ viết và đã có thể xây dựng các kim tự tháp. Công nghệ hiện tại cho thấy rằng khu vực này đã nằm trên mực nước biển 10.000 năm trước hoặc lâu hơn nữa. Như vậy hiển nhiên rằng nền văn minh tiên tiến đã tồn tại trong suốt thời tiền sử, rất lâu trước thời kỳ Đồ Đá Mới. Vì các nguyên nhân không rõ, các nền văn minh này đã biến mất và để lại các tàn tích dưới đáy biển. Dưới đây là một số bằng chứng cho thấy sự tồn tại của chúng.

Thành phố chìm dưới đáy đại dương —Những tàn tích xung quanh hòn đảo Yonaguni ở Nhật Bản

Ở mũi phía nam của đảo Yonaguni trong quần đảo Ryukyu, khoảng nửa thế kỷ trước, các thợ lặn đã tìm thấy những tàn tích của các công trình xây dựng nhân tạo ngay trong đại dương. Địa điểm bao gồm một cấu trúc hình vuông được phủ bởi san hô, một bậc thềm khổng lồ với những gờ và góc, giống như những con phố, cầu thang, và một tòa nhà hình vòm. Người ta có thể nói rằng những tàn tích trông giống như một bệ thờ trong thành phố cổ. Nó bao phủ khoảng 200 mét từ Tây sang Đông, và khoảng 140 mét từ Bắc tới Nam. Điểm cao nhất của nó vào khoảng 26 mét.

Posted Image

Posted Image

(Bên trên) Các kiến trúc đổ nát: một cầu thang ở góc bên phải nằm dưới đáy đại dương tại đảo Yonaguni thuộc quần đảo Ryukyu.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

(Bên dưới) Bậc thềm khổng lồ với những bậc thang của tàn tích dưới đáy biển tại đảo Yonaguni. 

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

Năm 1986, những thợ lặn địa phương đã đặt tên thành phố dưới nước này là “Khu lặn của tàn tích dưới đáy biển.” Nó đã thu hút rất nhiều sự chú ý khi các phương tiện truyền thông tường thuật về nó. Ngay sau khám phá này, Đại học Ryukyu đã thành lập một “Đội thăm dò khảo cổ dưới đáy biển” (UAET), và bắt tay vào một dự án nghiên cứu dài 8 năm. Dưới biển phía đông nam (của) hòn đảo Shihuan và trong những vùng lân cận, nhiều di tích đã được phát hiện, gồm một công trình làm bằng đá, một cấu trúc giống như hang được bao quanh bởi những chiếc cột, một bức tượng đầu người, một cấu trúc vòm, và những bức tượng hình rùa. Khám phá đáng ngạc nhiên nhất là “Chữ tượng hình”, được khắc vào một bức tường đá và đã được để lại bởi một nền văn minh cổ, được cho là một nền văn hóa nhân loại rất tiến bộ.

Nếu nhìn từ phía trên, có những con phố và nông trại nằm xung quanh các tàn tích. Khu vực tàn tích rộng nhất dài 100 mét và cao 25 mét, được xây dựng từ những tảng đá khổng lồ. Theo nhóm thăm dò UAET của Đại học Ryukyu, một mô hình máy tính đã cho thấy, nơi có thể có một bệ thờ của một ngôi đền, chính là nơi mà người cổ đại tụ họp và tổ chức các nghi lễ thờ phượng. Có hai cái hang với những chiếc cột hình bán nguyệt nằm ở phía Bắc của ngôi đền. Các nhà khảo cổ tin rằng chúng là một nơi để tắm rửa trước một nghi lễ. Có một cổng hình vòm ở phía Đông của đền thờ, nơi có hai tảng đá khổng lồ gối lên nhau. Phần đỉnh cho thấy những lỗ nhân tạo hình chữ nhật nằm bên trong những phiến đá. Có lẽ, những phiến đá đã được tạo hình bằng máy móc và được sử dụng như là những viên đá nền của thành phố.

Ngoài ra, dưới đại dương, xung quanh “Lishenyan” nổi tiếng nằm ở phía đông nam đảo Yonaguni, một bức tượng đầu người cao vài feet đã được phát hiện. Những đường nét trên mặt người vẫn có thể được nhận thấy rất rõ ràng. Sau đó, ở gần bức tượng đầu người khổng lồ, các nhóm chữ tượng hình đã được tìm thấy. Điều này chỉ ra rằng những người xây dựng các tàn tích dưới đáy biển này thuộc về một nền văn minh rất tiến bộ.

Posted Image

Posted Image
(Bên trên) Bức tượng đầu người cao vài feet nằm ở phía đông nam đảo Yonaguni.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

(Bên dưới) Nhóm chữ tượng hình được phát hiện từ những tàn tích dưới đáy biển.

Giáo sư Masaaki Kimura đã cung cấp bức ảnh.

Masaaki Kimura là một giáo sư địa chất tại Đại học Ryukyu. Ông đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 9 năm 1999 rằng người ta có thể thấy rõ ràng chúng là các công trình nhân tạo. Có những đường phố, cầu thang vuông góc với lỗ tròn trong phiến đá mà dường như đã được thiết kế để chèn cột đá, v.v.. Việc phát hiện ra bức tượng đầu người và những chữ tượng hình đã tạo ra sức thuyết phục đặc biệt rằng các tàn tích dưới đáy biển tại phía nam đảo Yonaguni bắt nguồn từ một nền văn minh tiền sử.

Kim tự tháp kỳ lạ dưới đáy biển

Ngoài những phát hiện ở phía Nam đảo Yonaguni, các khám phá quan trọng đã được thực hiện ở phía Tây của đảo. Năm 1990, các thợ lặn đã tìm thấy một kim tự tháp khổng lồ được xây dựng từ các khối đá. Kim tự tháp này rộng 183 mét, và cao 27,43 mét. Nó được xây dựng từ các phiến đá hình chữ nhật, và có 5 lớp. Cũng có một số nhỏ các công trình xây dựng gần đó tương tự như kim tự tháp khổng lồ. Những kim tự tháp mi-ni này bao gồm các lớp đá, có chiều rộng khoảng 10 mét và chiều cao khoảng 2 mét.

Các nhà địa chất học của Trường Đại học Ryukyu tham gia vào nghiên cứu này đã kết luận rằng đây là một công trình nhân tạo, và không có nguồn gốc tự nhiên. Nếu không, phải có một đống đá từ hiện tượng xói mòn, chứ không phải chỉ có một viên đá duy nhất được tìm thấy. Hơn nữa, có những dấu tích còn lại giống như những con phố xung quanh kim tự tháp, cũng chỉ ra rằng điều này không phải là một sản phẩm tự nhiên. Thợ lặn địa chất học từ Đại học Boston ở Hoa Kỳ nhận thấy rằng các cầu thang khổng lồ đã được xây dựng từ một loạt các lớp đá cao 1 mét, giống như bậc thang kim tự tháp. Mặc dù người ta có thể đưa ra giả thuyết rằng một cấu trúc như vậy đã được hình thành do đá bị phá vỡ bởi sự xói mòn trong nước, nhưng những đoạn cầu thang sắc nét như vậy chưa bao giờ được tìm thấy xuất phát từ một quá trình tự nhiên. Các nhà khảo cổ học tại Đại học London tin rằng những người xây dựng đó phải có được trình độ ít nhất là trên các nền văn minh cổ đại như Lưỡng Hà và sông Ấn.

Theo một giáo sư địa chất học tại Đại học Tokyo, khu vực đó đã chìm xuống đáy biển khoảng 10.000 năm trước, có nghĩa là, vào cuối kỷ Băng Hà. Tuy nhiên, dựa trên sự hiểu biết của khoa học hiện đại, con người vẫn còn nguyên thủy, và săn bắn động vật để ăn vào thời đó. Chắc là họ đã không có khả năng xây dựng những kiến trúc hình kim tự tháp như vậy. Một số người tin rằng nó đã được tạo ra bởi một số nền văn minh chưa được biết đến. Người ta có thể tự hỏi liệu một nền văn minh tiến bộ và thịnh vượng như vậy đã thực sự tồn tại hay không. Những tàn tích dưới đáy biển này liệu có phải chỉ tồn tại ở Nhật Bản không? Câu trả lời là Không.

Bức tường thành cổ Hujing dưới đáy biển ở Bành Hồ, Đài Loan

Theo những bản ghi chép trong các Văn thư lưu trữ huyện Bành Hồ cổ, trong đó viết, “Nếu ta nhìn từ trên cao ở Hujing, một đoạn dài của tường thành dưới đáy biển có thể được nhìn thấy. Nó thường được gọi là “Bể nước sâu Hujing”. Năm 1982, các thợ lặn chuyên nghiệp đã tìm thấy vị trí chính xác của thành phố Hujing bị chìm dưới đáy biển.

Tường thành cổ này có hình chữ thập. La bàn đo được rằng nó nằm chính xác ở vị trí hướng Bắc-Nam, và hướng Đông-Tây ở góc vuông. Bức tường thành được xây dựng chủ yếu bằng đá ba-dan và có rong biển trên bề mặt của nó. Nó có kích thước khoảng 160 mét từ Tây sang Đông, và khoảng 180 mét từ Bắc sang Nam. Nó dày khoảng 1,5 mét trên đỉnh và 2,5 mét tại đáy. Một số phần là không trơn nhẵn do xói mòn; tuy nhiên, các mạch ghép nối giữa những tảng đá thì rất khít. Ở phía Bắc có một cấu trúc dạng đĩa tròn. Đường kính của bức tường thành bên ngoài là khoảng 20 mét, với một bức tường bên trong khoảng 15 mét.

Vào thời điểm đó, một số người nghĩ rằng thành phố bị chìm thật sự là một phần mở rộng của Hujing xuống đáy biển. Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà địa chất cho thấy rằng nếu bức tường được hình thành từ các khối đá tự nhiên, thì nó phải liền mạch và có duy nhất một khối. Mặt khác, nếu nó đã được con người tạo ra, thì nó phải có các phần riêng biệt. Hơn nữa, nếu tường thành rất dài và thẳng, thì rất có khả năng nó đã được con người tạo ra. Cụ thể là, những tảng đá đều có cùng kích thước, với những góc vuông, và khoảng trống giữa các tảng đá được lấp kín. Ngoài ra, những chỗ rỗng trên bức tường có hình chữ thập, với mạch ghép phẳng và trơn tru. Điều này hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn xây dựng hiện nay.

Graham Hancock, một nhà văn người Anh, đã được công nhận trên toàn thế giới với những cuốn sách của ông, chẳng hạn nhưFingerprints of the Gods (Dấu tay của các vị Thần). Trong tháng 8 năm 2001, ông và vợ ông đã tham gia với các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Nhật Bản để khám phá khu vực này. Ông giải thích rằng những viên đá từ thành phố bị chìm dưới đáy biển rõ ràng là khác với cấu trúc bằng đá tự nhiên, khiến chúng nhiều khả năng là có nguồn gốc nhân tạo. Ông nói một cách tự tin: “Thiên nhiên không tạo ra những cấu trúc như vậy, trái ngược với những kiến trúc nhân tạo, nơi mà sự chú ý lớn được dồn vào những chi tiết như vậy.” Rõ ràng là, các khối đá của thành phố bị chìm dưới đáy biển Hujing đã được định vị chính xác theo phương Bắc-Nam, và Đông-Tây. Ngoài ra, các khối đá này có bề mặt rất phẳng và mịn. Chúng được xếp rất khít với nhau đến nỗi chỉ một con dao mỏng mới có thể đi vào giữa các mối nối. Quan điểm của Hancock là điều này đã được con người tạo ra, và không thể là một sản phẩm của tự nhiên.

Hancock cũng cho rằng, hiện có một mô hình chủ lưu được thiết lập trong xã hội con người. Tuy nhiên, mô hình chủ lưu này không thể giải thích các khám phá khảo cổ gần đây. Liệu những công trình kiến trúc ngày nay và các kiến trúc tiền sử là có mối liên hệ với nhau? Trên thực tế, lịch sử hiện thời không thể lý giải được những văn minh cổ đã biến mất. Đây là gợi ý cho chúng tôi biết về họ. Nói cách khác, rất có thể những phát hiện này, chẳng hạn như thành phố dưới đáy biển Hujing và những phát hiện tương tự, có chứa đựng các bằng chứng bị che đậy của những nền văn minh loài người trong quá khứ.

Tàn tích trong Tam giác Bermuda và các công trình kiến trúc dưới đáy biển ở Bahamas

Năm 1958, một số nhà khoa học Mỹ đã tìm thấy những cấu trúc kỳ lạ trong quá trình nghiên cứu đáy biển xung quanh đảo Bahamas. Những công trình này có các họa tiết hình học cụ thể, trải dài ra cho đến một vài dặm. Mười năm sau, những bức tường đá khổng lồ, 400-500 feet chiều dài, đã được tìm thấy ở ngay gần đó. Các phần mở rộng đã hình thành một góc vuông chính xác với những bức tường chính. Bức tường bao gồm các khối đá khổng lồ với kích thước hơn 1 foot vuông. Sau đó, những bậc thềm phức tạp hơn, đường giao thông, bến cảng, cầu, và những thứ tương tự như vậy đã được xác định. Toàn bộ di tích được bố trí như một bến cảng.

Ngoài ra, các nhà khoa học châu Âu đã tìm thấy, trong quá trình nghiên cứu đáy biển Tam giác Bermuda, một kim tự tháp khổng lồ dưới nước chưa được biết đến. Kim tự tháp có cạnh là 300 mét, và 200 mét chiều cao. Có hai lỗ trống khổng lồ trong kim tự tháp, rõ ràng là nhân tạo. Nước biển cuộn qua hai cái lỗ trống khổng lồ này, tạo thành một xoáy nước khổng lồ và do đó tạo ra một xoáy nước gần đó. Điều đó cũng làm cho bề mặt nước vẩn đục. Rất khó để đánh giá kim tự tháp này được xây dựng khi nào. Nó đã được xây dựng từ hàng chục ngàn năm trước khi đất bị chìm xuống biển.

Sự tồn tại của những nền văn minh tiền sử 

Trái đất đã không giống như thế này ngay từ lúc khởi đầu của nó. Nó đã trải qua vô số các thay đổi lớp vỏ, núi lửa, lũ lụt, thời kỳ băng hà, v.v.. Trái đất như nó hiện diện bây giờ đã chứng kiên vô số thay đổi. Chúng ta hãy lấy “Vùng đất cổ gần mặt nước” như một ví dụ. Nơi này sâu 2.600 mét, và chỉ cách Vịnh Nhật Bản 90 km. Tuy nhiên, 67-25 triệu năm trước đây, nó ở trên cao của Thái Bình Dương, khoảng chừng 120 km về phía đông quần đảo Nhật Bản. Vì vậy, không khó khăn để hình dung rằng nếu nền văn minh này đã tồn tại trong thời tiền sử, các thảm họa tự nhiên và sự tái sắp xếp địa chất đã thay đổi cảnh quan, và chỉ còn lại rất ít dấu tích được mãi mãi lưu giữ dưới đáy biển.

Nền văn minh Mu huyền thoại 

Vào cuối thế kỷ 19, Đại tá người Anh James Churchward đã làm nhiệm vụ đóng quân ở Ấn Độ. Ông ta khá may mắn khi có được chữ khắc Naccal từ một tu viện trưởng của một ngôi đền Hin-đu. Đó là một ngôn ngữ rất khó hiểu. Sau nhiều cố gắng, Churchward và một thầy tu nổi tiếng đã giải mã lịch sử của một nền văn minh tiền sử vĩ đại. Năm 1926, Churchward đã xuất bản một cuốn sách, The Lost Continent (Lục địa đã mất) nói về nền văn minh Mu.

Vị trí của lục địa Mu

Theo chữ khắc, Lục địa Mu nằm ở Thái Bình Dương. Mu là một nền văn minh vĩ đại và thịnh vượng, trong đó có văn học, nghệ thuật, kỹ năng nghề thủ công tiên tiến, và cũng đã phát triển máy móc. Con người vào thời gian đó có kỹ năng xây dựng tuyệt vời, và đã có thể xây dựng các tòa nhà khổng lồ, kim tự tháp, tượng đài bằng đá, lâu đài, và đường xá. Những con đường lát đá gọn gàng và sạch sẽ, và những kênh đào đã được tìm thấy tại thủ đô và tất cả các thành phố lớn khác. Tất cả các bức tường đều chói lọi và được trang trí bằng vàng. Mọi người sống một cuộc sống xa hoa. Những cư dân trên Lục địa Mu là những hoa tiêu rất giỏi đi biển. Người ta cho rằng họ đã đi du hành qua tất cả các đại dương. Họ thậm chí còn phát triển một đế chế thực dân hùng mạnh. Vào lúc đó, Lục địa Mu được gọi là “đỉnh cao của văn hóa thế giới.”

Tuy nhiên, Lục địa Mu thịnh vượng đã biến mất. Nó đã bị chìm xuống đáy đại dương sau một thảm họa bất ngờ. Bi kịch khủng khiếp bắt đầu với một đợt phun trào núi lửa mãnh liệt, theo sau là những trận động đất và các cơn bão mạnh. Mọi thứ xảy ra cùng một lúc. Dung nham núi lửa phun ra ngoài, đi kèm với các trận động đất mạnh. Đất dâng cuồn cuộn như sóng biển, lửa và khói mù mịt che kín cả bầu trời. Tất cả mọi thứ sụp đổ như đồ chơi, và ngay lập tức bị bao phủ bởi dung nham và nước biển. Không có cảnh báo từ trước, toàn bộ Lục địa Mu đã chìm xuống đáy Thái Bình Dương.

Người ta có thể nghĩ rằng câu chuyện này là một huyền thoại. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác, người ta có thể thấy khả năng của một nền văn minh loài người từng hiện hữu.

Những di tích dưới đáy biển cung cấp bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của các nền văn minh tiền sử. Tuy nhiên, rất khó để tìm ra những khám phá này trong các sách giáo khoa. Các nhà khảo cổ học và sử gia hiện đại không muốn thách thức kiến thức lịch sử hiện tại, vì điều đó có thể không tương thích với các lý thuyết hiện hành. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng chỉ là vấn đề thời gian để những nhà nhân chủng học và sử gia thay đổi các khái niệm mà họ có, và để chấp nhận những sự thật lịch sử.
Văn minh tiền sử: Những thành phố dưới đáy biển (Phần 1)
( 9:51 PM | 05/09/2010 ) Những tàn tích dưới đáy biển này không chỉ có ở Nhật Bản, mà là ở khắp các đại dương trên toàn thế giới. Vậy thực sự trên Trái Đất đã từng tồn tại một nền văn minh rất lớn và đã bị diệt vong bởi một trận đại hồng thuỷ như trong các câu chuyện cổ xưa? Câu trả lời xin dành cho cho độc giả tự phán xét.

Resized to 98% (was 760 x 344) - Bấm vào hình dể xem theo kích thước thậtPosted Image

Toàn cảnh kiến trúc kim tự tháp Yonaguni

Vào năm 1985, Kihachiro Aratake, một thợ lặn người Nhật trong khi đang làm việc dưới vùng biển gần một hòn đảo nhỏ phía Nam Nhật Bản, tên là đảo Yonaguni Jima (gần Đài Loan) đã tình cờ phát hiện một kiến trúc đá cổ đồ sộ. Điều đặc biệt là nó có dạng bậc thang của các kim tự tháp với những góc cạnh tinh tế. Khu đá dài đến 100m và có những đường hầm sâu hơn 2m.
Posted ImageGiáo sư tiến sỹ Masaaki Kimura (sinh ngày 6/11/1940, tại Yokohama, Nhật Bản) là giáo sư danh dự của khoa Khoa học Trường Đại học Ryūkyūs, Okinawa, Nhật Bản. Ông tốt nghiệp tại Khoa Thủy sản của Trường Đại học Tokyo vào năm 1963, rồi đạt học vị tiến sĩ về địa chất biển vào năm 1968. Ông đã từng làm việc cho Viện nghiên cứu Hải dương học thuộc trường Đại học Tokyo, Viện khảo sát địa chất Nhật Bản, Cơ quan Khoa học và Công nghệ thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế Nhật Bản, và Đài quan sát thiên văn Trái Đất Lamont-Doherty thuộc trường Đại học Columbia. Ông giảng dạy tại trường Đại học Ryukus từ năm 1977 tới năm 2002. Ông hiện giờ là tổng giám đốc của Hội nghiên cứu Di sản Văn hóa và Khoa học Đại dương.
Năm 1996, ông đã tiến hành khảo sát khu vực này. Sau nhiều năm nghiên cứu sự hình thành của khu tàn tích này, ông đã đi tới kết luận đáng kinh ngạc rằng: đây là dấu tích của một nền văn minh cao cấp cổ xưa, là một thành phố cổ bị động đất đánh chìm khoảng 12.000 năm trước.
Giáo sư Kimura cũng cho biết, ban đầu ông nghĩ rằng các cấu trúc này là tự nhiên. Nhưng ông đã thay đổi quan điểm sau lần đầu tiên lặn xuống quan sát. Ông đã tìm thấy những dấu vết mài xẻ trên đá, các ký tự trên những phiến đá và các mẩu đá được mài đẽo hình các loài động vật.
Ngoài những phát hiện ở phía Nam đảo Yonaguni, các khám phá quan trọng đã được thực hiện ở phía Tây của hòn đảo này. Năm 1990, các thợ lặn đã tìm thấy một kim tự tháp khổng lồ được xây dựng từ các khối đá. Kim tự tháp này rộng 183m, và cao 27,43m. Nó được xây dựng từ các phiến đá hình chữ nhật, và có 5 lớp. Cũng có một số nhỏ các công trình xây dựng gần đó tương tự như kim tự tháp. Những kim tự tháp nhỏ này bao gồm các lớp đá, có chiều rộng khoảng 10m và chiều cao khoảng 2m. Các thợ lặn còn phát hiện cái trông như là một con đường chạy xung quanh công trình chính. Sau đó, họ còn phát hiện ra những con đường dài, những đại lộ lớn, những cấu trúc cầu thang lớn, những cấu trúc cổng tò vò, các khối đá khổng lồ được đẽo gọt chính xác và tỉ mỉ, tất cả hài hòa trong một chỉnh thể kiến trúc đồng nhất mà họ chưa từng thấy bao giờ. Chúng rõ ràng là phần còn lại tương đối nguyên vẹn của một thành phố tiền sử.
Posted ImagePosted ImagePosted Image
Hệ thống chữ tượng hình được tìm thấy tại khu tàn tích Yonaguni

Posted ImageNhiều di tích khác cũng đã được phát hiện, gồm một công trình làm bằng đá, một cấu trúc giống như hang động được bao quanh bởi những chiếc cột, một bức tượng đầu người, một cấu trúc vòm, và những bức tượng hình rùa. Những đường nét trên bức tượng mặt người vẫn còn rất rõ ràng, rất giống với những đầu người bằng đá khác ở Peru. Sau đó, ở gần bức tượng đầu người khổng lồ, các nhóm chữ tượng hình đã được tìm thấy. Điều này chỉ ra rằng những người xây dựng các tàn tích dưới đáy biển này thuộc về một nền văn minh rất tiến bộ.
Điều đáng chú ý là xung quanh khu vực kiến trúc này không có dấu tích của đá vôi, nghĩa là trước đây công trình này nằm cao hơn mặt nước biển. Mặt trên của kiến trúc có một khối đá lớn tương tự như Đá Mặt Trời ở Nam Mỹ, khiến chúng ta không thể không nghĩ rằng đây có lẽ là một công trình thiên văn.
Đoàn thám hiểm Team Atlantis đã lặn xuống quay bộ phim tài liệu về công trình này khẳng định đây là một công trình nhân tạo. Không có bằng chứng nào cho thấy những cư dân của nền văn hóa Nhật Bản cổ đại có thể xây dựng được chúng. Nói cách khác, những ai đó thuộc về những thời kỳ tiền sử xa xôi đã xây dựng nó, trước khi một biến cố địa chất nào đó đã làm cho cả một mảng khối lục địa to lớn chìm xuống, kéo theo cả công trình dang dở vĩ đại này. Các giám định niên đại cho thấy cấu trúc này có thể ra đời vào khoảng 8.000 đến 10.000 năm trước công nguyên. Đến nay, sau 25 năm khám phá ra công trình này, chúng ta vẫn chưa nghiên cứu ra được nền văn minh nào là những người đã xây dựng nó.
Posted Image
Xưa kia khu vực di tích Yonaguni nằm trên mực nước biển, khi băng hà chưa tan chảy làm nước biển dâng lên. Thời kỳ Băng tan và và mực nước biển bắt đầu dâng lên vào khoảng 10.000 -12.000 năm trước. Hiện nay Yonaguni nằm dưới mực nước biển, vì vậy các nhà khoa học cho rằng kim tự tháp Yonaguni có ít nhất 10.000 năm tuổi.

Posted Image
Những bậc cầu thang cao tới 1m

Hơn nữa, có những dấu tích còn lại của những con phố xung quanh kim tự tháp. Các thợ lặn thuộc khoa địa chất học thuộc trường Đại học Boston Hoa Kỳ nhận thấy rằng các cầu thang khổng lồ đã được xây dựng từ một loạt các lớp đá cao 1m, giống như bậc thang kim tự tháp. Các nhà khảo cổ học tại Trường Đại học London tin rằng những người xây dựng nên công trình này có trình độ còn vượt trên các nền văn minh Lưỡng Hà và sông Ấn.
Posted ImagePosted ImagePosted ImagePosted ImagePosted Image
Những dấu cắt trên đá như thế này được tìm thấy ở khắp mọi nơi trong thế giới cổ xưa. Trái sang phải, trên xuống dưới: Dấu cắt đá tại Yonaguni, tại Machu Pichu, Carnac (Pháp), Castleruddery (Ireland), tại Giza (Ai Cập). Phải chăng chúng là tàn tích của một nền văn minh toàn cầu đã một thời phát triển rộng khắp?

Nếu công trình này là nhân tạo, thì ai đã tạo ra nó? Chúng ta không hề có một tư liệu lịch sử nào đề cập đến một nền văn minh giữa biển Thái Bình Dương cả. Có nghĩa là: nó rất cổ xưa, vượt xa giới hạn hiểu biết của lịch sử chúng ta.
Công trình này tại sao lại bị chìm dưới nước, phải chăng nó đã xuất hiện từ thời kỳ băng hà, để rồi bị nhấn chìm xuống đáy đại dương bởi băng tan, cách nay ít nhất là 10.000 năm? Những năm gần đây, ngày càng có nhiều cấu trúc dạng kim tự tháp được tìm thấy ở Ai Cập, Peru, Châu Á, và mới đây là ở châu Âu. Những tàn tích dưới đáy biển này không chỉ có ở Nhật Bản, mà là ở khắp các đại dương và lục địa trên toàn thế giới. Vậy thực sự trên Trái Đất đã từng tồn tại một nền văn minh rất lớn và đã bị diệt vong bởi một trận đại hồng thủy như trong các câu chuyện cổ xưa? Câu trả lời xin dành cho cho độc giả tự phán xét.
Chùm ảnh thêm về khu di tích Yonaguni
Posted ImagePosted Image
Posted ImagePosted Image
Posted ImagePosted Image
Posted ImagePosted Image


Các điều trên chứng tỏ sức sáng tạo và khả năng của con người thật đáng kinh ngạc.Nền văn minh nào đã tạo nên những công trình này chắc chắn kỹ thuật không phải tầm thường .Các nhà khoa học sẽ tốn rất nhiều thời than nghiên cứu để có câu trả lời thỏa đáng vấn đề này 
Văn minh tiền sử: Những thành phố dưới đáy biển (Phần 2)
( 9:06 PM | 08/09/2010 ) Thành phố 9.500 tuổi dưới đáy vịnh Cambay, Ấn Độ

Từ Nhật Bản đến Cuba, những khám phá gần đây chứng tỏ rằng đã từng tồn tại những nền văn minh, những xã hội cao cấp từ hơn 10.000 năm trước. Tuy nhiên, những khám phá này cũng chứng tỏ rằng sự kết thúc bất ngờ của những nền văn minh phát triển có thể còn lặp lại.

Posted Image
Hình chụp sonar cho thấy các cấu trúc dưới đáy biển không phải là kiến tạo tự nhiên

Theo các nhà khoa học hàng hải Ấn Độ, các phần còn lại của thành phố này được khám phá ra tại độ sâu 37 m dưới mực nước biển tại vịnh Cambay ở vùng biển phía Tây Ấn Độ. Khi áp dụng phương pháp ước định niên đại C14, các mẫu vật cho kết quả khoảng 9.500 năm tuổi.

BBC tường trình về sự kiện khám phá Cambay như sau:

Thành phố rộng lớn – dài khoảng 8km và rộng 3km – được cho là sẽ đẩy lui niên đại của các tàn tích đã biết tại tiểu lục địa Ấn Độ thêm hơn 5.000 năm nữa.

Công trình đã được các nhà hải dương học từ Học viện công nghệ đại dương quốc gia Ấn Độ khám phá một cách tình cờ, trong khi đang chỉ đạo các nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm môi trường. Dùng máy quét sonar (phương pháp phản xạ âm học để định vị, đo đạc các vật thể và các cấu trúc nằm sâu dưới nước), họ đã xác định được các cấu trúc hình học tại độ sâu 37m. Các mảnh vụn được khám phá từ công trình – gồm các vật liệu xây dựng, đồ gốm, các dãy tường, các chuỗi hạt, các tác phẩm điêu khắc, cùng với xương và răng người – đã được xác định niên đại bằng phương pháp C14 và cho kết quả là khoảng 9.500 tuổi.



(theo BBC News)

Posted Image
Hình chụp sonar cho thấy các kiến trúc bị chôn vùi dưới lớp cát biển

Nhiều bản tường trình khác cũng khẳng định lại đánh giá này.

Nhà làm phim Graham Hancock, đồng thời là một chuyên gia chuyên nghiên cứu về các nền văn minh cổ xưa, nói rằng bằng chứng này là rất thuyết phục. Ví dụ, ông nói các nhà hải dương học đã tìm thấy 2 tảng đá lớn lớn hơn bất kỳ thứ gì đã từng được khám phá. “Các thành phố theo quy mô này, là chưa từng được biết đến trong các ghi chép khảo cổ học cho đến khoảng 4.500 năm trước, khi các thành phố lớn đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà”.

“Vào giữa tháng giêng năm 2002, các nhà khoa học hàng hải tại Ấn Độ đã tuyên bố rằng họ đã có các bức ảnh sonar của các vật thể hình vuông và hình chữ nhật nằm sâu dưới mặt nước khoảng 130m tại vùng bờ biển Tây Bắc Ấn Độ ở vịnh Cambay. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Kỹ thuật Ấn Độ đã ra lệnh khu vực sẽ được khoanh vùng bảo vệ. Những gì được khám phá đã làm ngạc nhiên các nhà khảo cổ học toàn cầu” .

“Toàn bộ các mô hình về nguồn gốc của nền văn minh hiện đại sẽ phải được xây dựng lại từ đầu”.

(theo GrahamHancock.com/news).
Linda Moulton Howe, nhà nghiên cứu các sự kiện kiểu này trên khắp thế giới, đã phỏng vấn Michael Cremo về khám phá mới này. Cremo là nhà nghiên cứu và là tác giả của cuốn sách “Khảo cổ học bị cấm” (Forbidden Archaeology), đã đến thăm Ấn Độ và dự hội thảo về công trình Cambay.

“Trong vòng vài tháng trở lại đây, các kỹ sư đã bắt đầu tiến hành nạo vét tại đó và họ đã mang lên nhiều hóa thạch xương người, các hóa thạch của gỗ, các dụng cụ đá, các mảnh đồ gốm, và nhiều thứ khác khẳng định rằng đó thực sự là một khu vực định cư của con người. Họ đã có thể tiến hành công việc định vị và đo đạc siêu âm dưới mặt nước một cách chuyên sâu hơn ở đó và đã có thể nhận ra được nhiều kiến trúc nữa. Chúng có vẻ đã từng nằm trên bờ của một con sông chảy từ tiểu lục địa Ấn Độ qua khu vực này”.

Posted Image
Linda Moulton Howe nói:

“Ngay cả nếu chúng ta không biết nền văn hóa của họ là gì, nếu đó là một thành phố cổ 9.500 năm tuổi, thì nó đã cổ xưa hơn nền văn minh Sumeria tới vài ngàn năm. Nó cổ hơn Ai Cập, cổ hơn Trung Hoa. Vì thế nó sẽ triệt để làm thay đổi bức tranh tổng thể của sự phát triển của các nền văn minh thành thị trên hành tinh này.

Giờ đây, nếu các nghiên cứu mở rộng có thể xác định được văn hóa của những người từng sống trong thành phố mà giờ đây đang nằm sâu dưới nước này – nếu đúng họ là những người Veda, thì tôi nghĩ hoàn toàn có khả năng xác định vị trí của nó tại vùng duyên hải Ấn Độ – Tôi nghĩ điều đó sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn cảnh của lịch sử Ấn Độ, vốn trước đây được viết ra bởi các nhà khảo cổ phương Tây”.

Tất cả những khám phá gần đây chỉ rõ rằng thực tế có nhiều nền văn minh phát triển cao trong quá khứ xa xôi, ngay cả trong thời kỳ Băng Hà. Bên cạnh đó, còn có nhiều cấu trúc đền đài được tìm thấy tại nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Từ Nhật Bản đến Ấn Độ, Cuba, … các thành phố dưới đáy biển chứng tỏ rằng đã từng tồn tại những nền văn minh, những xã hội cao cấp từ hơn 10.000 năm trước. Tuy nhiên, những khám phá này cũng chứng tỏ rằng sự kết thúc bất ngờ của những nền văn minh phát triển có thể còn lặp lại.
Văn minh nhân loại: Bí ẩn những thành phố dưới đáy biển (Phần 3)
( 3:36 PM | 12/09/2010 ) 
Thành phố và kim tự tháp dưới đáy biển Cuba


Ông nói rằng có thể chúng có nguồn gốc nhân tạo, nhưng trong trường hợp đó, nghĩa là chúng ta đang ở vào một tình huống rất thú vị. Các cấu trúc này hiện nay nằm ở độ sâu 700-900 mét dưới mực nước biển. Nếu tính toán thời điểm khi mà khu vực này vẫn còn đang nằm phía trên mực nước biển, thì đó là thời điểm từ 15.000 cho tới 50.000 năm trước!



Posted Image

Trong một thông cáo báo chí ngày 14 tháng 5 năm 2001, hãng tin Reuters đã thông báo với thế giới rằng kỹ sư hàng hải Paulina Zelitsky, giám đốc Công ty Truyền thông Kỹ thuật số Cao cấp (ADC), đã phát hiện được một thành phố chìm đắm trong vùng nước sâu ngoài khơi bờ biển phía tây Cuba, gần bán đảo Guanahacabibes (xem hình vẽ).
Sử dụng các thiết bị dò tìm siêu âm và máy quay phức tạp, kỹ sư Paulina Zelitsky, cùng chồng là Paul Weinzweig, và con trai Ernesto Tapanes đã khám phá ra những tảng đá lớn “cùng một loại đá được tìm thấy tại Stonehenge hoặc đảo Easter”.Khi khám phá ra tàn tích này vào tháng 7 năm 2000, họ đã dùng thiết bị sonar (máy định vị thủy âm) để quan sát. Họ đã phát hiện thấy các cấu trúc giống như đường phố, các tòa nhà và các kim tự tháp. Họ cũng từng trở lại mang theo một thiết bị không người lái điều khiển từ xa nặng khoảng 1,3 tấn, điều khiển từ tàu mẹ thông qua cáp quang. Camera của nó đã cho thấy những khối đá khổng lồ, có vẻ là đá granite, dài khoảng 2 đến 5m, được cắt gọt vuông vức hoặc tròn trịa.

Posted Image
Một tảng đá trắng lớn với những đường sọc kẻ chi tiết. Hình ảnh được quay bởi ADC.

Paul Weinzweig cho biết: “Một vài cấu trúc phức tạp có thể có chiều rộng khoảng 400m và cao khoảng 40m. Một số đang nằm trên đỉnh của những cái khác. Chúng cho thấy những góc cạnh sắc nét và tính đối xứng, các dấu hiệu của loại kiến trúc nhân tạo. Chúng tôi đã chỉ cho các nhà khoa học Cuba, Hoa Kỳ và bất cứ ai xem, và không ai cho rằng đó là một công trình của thiên nhiên cả”.Những kiến trúc đá lớn hình chữ nhật trong một vực cát trắng dày, trải rộng hơn 20 km vuông.
Những bức ảnh chụp bằng các thiết bị dò vẽ địa hình bằng âm thanh, cho thấy chúng có nhiều điểm giống với các cấu trúc dạng kim tự tháp Maya và các đền thờ của người Aztec tại Mexico.Một nhà nhân loại học làm việc trong dự án này đã nói rằng những hình ảnh trích dẫn từ những cuộn phim video đã cho thấy rõ “các biểu tượng và câu khắc trên đá”, và cho tới thời điểm đó chưa có ai giải mã được chúng.
Vào tháng 10 năm 2004, trong một chuyến nghiên cứu kéo dài 25 ngày sử dụng tàu ngầm mini Deep Worker, họ đã xác nhận được sự tồn tại của một kim tự tháp cao tới 35m. Tuy nhiên do thiếu trang bị kỹ thuật thích hợp, họ đã chỉ lặn xung quanh kim tự tháp và chụp ảnh cận cảnh chứ chưa thể chụp được hình ảnh toàn cảnh từ xa của nó. Tuy nhiên đội lặn đã lấy lên được một tảng đá được chạm khắc, được cho là của một kim tự tháp khác.
Posted Image
Hình ảnh phục chế 3D của một cấu trúc tại tàn tích dưới đáy biển Cuba (chỉ chính xác khoảng 40%, do máy định vị thủy âm cung cấp ảnh gốc có chất lượng hạn chế). Các cấu trúc nằm trên một khoảng đất nền bằng phẳng dưới mực nước biển khoảng 700m.

Các nhà địa chất cho rằng từng có một dải đất nối liền Cuba và bán đảo Yucatan của Mexico, và một số phần của đảo Cuba đã từng chìm dưới biển vào 3 thời kỳ khác nhau trong quá khứ xa xôi.
Posted Image
Hình ảnh sonar do máy định vị thủy âm ghi được, cho thấy các cấu trúc phức tạp dưới đáy biển Cuba, cách mặt nước 700-900m

Posted Image
Linda Moulton Howe là một nhà báo điều tra, nhà giáo dục, nhà văn nổi tiếng. Vào năm 2001 bà đã có một cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ địa chất Manuel Iturralde-Vinent, thuộc Bảo tàng lịch sử tự nhiên quốc gia Havana, Cuba. Cuộc phỏng vấn xoay quanh chủ đề di tích dưới đáy biển này.
Khi được hỏi “Có phải các cấu trúc này không phù hợp với bất kỳ lời giải thích nào về nguồn gốc tự nhiên?”, ông trả lời là ông không thể chứng minh các cấu trúc đó có nguồn gốc tự nhiên. Ông nói rằng có thể chúng có nguồn gốc nhân tạo, nhưng trong trường hợp đó, nghĩa là chúng ta đang ở vào một tình huống rất thú vị. Các cấu trúc này hiện nay nằm ở độ sâu 700-900 mét dưới mực nước biển. Nếu tính toán thời điểm khi mà khu vực này vẫn còn đang nằm phía trên mực nước biển, thì đó là thời điểm từ 15.000 cho tới 50.000 năm trước!
Theo quy tắc của chuyển động kiến tạo bình thường đã ghi được trong 100 năm qua ở Cuba, thì đáy biển đang chìm xuống với tốc độ khoảng 16 mm một năm. (Những quy luật kiểu như thế này cũng phổ biến ở nhiều nơi khác trên thế giới). Nếu quy tắc đó hằng đúng trong thời kỳ địa chất dài, thì có nghĩa là thời điểm mà khu vực này nằm cao hơn mực nước biển là 50.000 năm trước.

Posted Image
Hình ảnh phục chế 3D của Dean Clarke, chỉ mang tính minh họa

Trong buổi phỏng vấn còn có mặt Paulina Zelitsky, Kỹ sư hàng hải, Công ty Truyền thông Kỹ thuật số Cao cấp (ADC), Havana, Cuba. Paulina Zelitsky nói:
“Các mẫu đá mà chúng tôi tìm thấy dưới đáy đại dương có cấu trúc cự thạch. Các mẫu vật là những khối đá granit, bóng láng hoàn hảo, cùng với những lớp vỏ hóa thạch cứng bên ngoài. Đó là các hóa thạch của sinh vật mà bình thường sống trên mặt đất chứ không phải dưới đáy đại dương. Điều này rất thú vị bởi vì đây là bằng chứng cho thấy toàn bộ khu vực này đã bị chìm đến độ sâu 700 mét.
Khu vực này đã có hoạt động địa chấn mạnh mẽ suốt hàng ngàn năm qua. Và chúng tôi tìm thấy trên đáy đại dương những vết đứt gãy mà từ đó macma và tro núi lửa đã trào ra. Từ các cấu trúc này chúng tôi đã có thể biết được hình dạng của vùng đất chìm này, bởi vì các bạn có thể nhìn thấy chúng rất rõ ràng qua những tấm ảnh của chúng tôi. Các bạn cũng có thể nhìn thấy các vịnh, giống như bến cảng, và tất cả nằm ở độ sâu khoảng 700 tới 900 mét dưới mực nước biển”.

Hỏi: Về mặt Địa chất, Tiến sỹ Iturralde-Vinent và những người khác có ý tưởng nào về những hoạt động núi lửa không? Đã từng có một đợt phun trào hay một loạt các vụ phun trào lớn hay không?

“Đó là hàng loạt các vụ phun trào và như ông ta nói, hiện chúng vẫn còn hoạt động. Một loạt các vụ phun trào đã tạo ra chuyển động kiến tạo lớn tới mức vùng đất này đã bị đánh chìm. Ví dụ, Cuba đã từng bị chìm và lại nổi lên một vài lần! Nhưng đó đã là từ rất lâu rồi. Về mặt địa chất, gần đây hơn, vùng đất từng nối liền Yucatan với Cuba đã chìm xuống.

Ngoài ra, về mặt địa chất và về mặt hệ động thực vật, cả Yucatan, Cuba, và bán đảo Guanahacabibes nằm ở cực tây bắc Cuba là hoàn toàn giống hệt nhau. Cùng một loại đá vôi và cùng một loại hệ động thực vật giống nhau. Rất rõ ràng rằng vùng đất này đã từng nối liền Yucatan và Cuba nhưng hiện nay đang nằm dưới đáy đại dương. Nhưng hoạt động kiến tạo đã làm vùng đất này bị chìm. Tất nhiên, động đất và núi lửa đã đi kèm với chuyển động kiến tạo. Chuyển động kiến tạo không bao giờ nhẹ nhàng cả. Nó luôn luôn đi kèm với hoạt động mạnh mẽ của núi lửa và động đất.

Nhưng chúng tôi đã nhìn thấy dưới đáy đại dương những vịnh và đường bờ biển của hòn đảo đã chìm. Chúng tôi nghĩ rằng đã từng có một loạt các hòn đảo giữa Cuba và Yucatan. Chúng có thể đã bị đánh chìm 15.000 năm trước đây”.

Posted Image
Hình ảnh phục chế 3D của Dean Clarke, chỉ mang tính minh họa

Hỏi: Có vẻ như những cấu trúc đá cự thạch có nguồn gốc từ một nơi nào đó khác?

“Chúng tôi vẫn chưa biết. Nhưng rõ ràng chúng không phải là từ Cuba. Tảng đá mà chúng tôi thu được từ đáy đại dương là đá granite rất trơn bóng. Toàn bộ bán đảo phía tây bắc Cuba này đều là đá vôi, loại đá vôi nứt nẻ rất nhiều. Vì vậy, về mặt địa chất, cấu trúc đá granite cự thạch là hoàn toàn xa lạ đối với Cuba. Nhưng nó cũng không được biết đến tại Yucatan vì Yucatan cũng đá vôi, không có đá granite. Đá granite chỉ được tìm thấy ở vùng trung tâm của Mexico.

Nó bao phủ một khu vực rất đẹp, bằng phẳng và sạch sẽ. Không có gì khác trong khu vực này. Và nó bao phủ khoảng 20 km vuông khu vực này. Khu vực này bằng phẳng, hoàn toàn bằng phẳng. Một cánh đồng silic trắng mênh mông. Các cấu trúc cự thạch nổi bật giữa khung cảnh này”.

Posted Image
Hình ảnh phục chế 3D của Hans-Peter Ludwig, chỉ mang tính minh họa

Hỏi: Cho đến nay, kết luận khoa học thống nhất về cách mà 20 km vuông khu vực này có thể chìm xuống tới độ sâu 800m dưới mực nước biển, là gì?

Toàn bộ hòn đảo đã bị chìm xuống. Chúng tôi nghĩ rằng Cuba và Yucatan đã từng nối liền với nhau bởi một dải đất ở một thời kỳ nào đó trong quá khứ. Nhưng dần dần, vùng đất đó bị vỡ ra thành những hòn đảo và rồi chìm xuống đáy đại dương. Vì vậy, vùng đất mà chúng tôi phát hiện ra các cấu trúc cự thạch có thể đã bị chìm vào khoảng từ 15.000 cho tới 50.000 năm trước đây…”

……..

Kể từ sau chuyến nghiên cứu vào tháng 10 năm 2004 kéo dài 25 ngày với những thành quả đáng kinh ngạc, những thông tin cập nhật của ADC về công trình tiền sử bí ẩn dưới đáy biển Cuba đột ngột chìm vào im lặng một cách khó hiểu. Nhiều nguồn tin cho rằng dự án này đã trở thành bí mật quốc gia của Cuba. Một lần nữa, một bí ẩn vĩ đại lại chìm sâu vào vòng bí ẩn. Điều này đã gây bất bình và thất vọng lớn cho những người quan tâm theo dõi cuộc nghiên cứu này.

(còn nữa)



Nền văn minh nhân loại: Những thành phố dưới đáy biển (Phần 4)
( 3:45 PM | 17/09/2010 ) Tại sao công trình này lại nằm dưới đáy biển, điều gì đã xảy ra cho hải cảng tiền sử này? Tại sao lại có nhiều công trình cùng chung số phận với nó như vậy? Ai là chủ nhân đích thực của các công trình dưới đáy biển của những thời kỳ xa xưa đó?



Posted Image
“Con đường Bimini”(chữ J ở dưới) và “Con đường của Proctor”(cặp đường thẳng phía trên) được vẽ dưới sự trợ giúp của các máy định vị thủy âm (sonar)

“Con đường Bimini” (Bimini Road) được phát hiện và công bố trước thế giới vào năm 1968. Nó dài khoảng 580m, hình chữ J, nằm tại vùng nước nông của hòn đảo Bimini cách bờ biển Miami Hoa Kỳ gần 100km về phía Đông. Những khối đá dựng nên "con đường" này làm bằng một loại đá gọi là beachrock. Các hình ảnh cho thấy đây là một công trình nhân tạo, được xây dựng vào một thời kỳ rất xa xưa.

Posted Image
Chấm màu đỏ là vị trí "Con đường Bimini". Phần màu xanh đậm là vùng biển sâu, phần màu xanh nhạt hơn là vùng biển nông hơn. "Con đường Bimini" nằm gần chỗ giáp giới giữa 2 vùng biển nông và sâu. Nhiều nhà khoa học cho rằng bến cảng này đã rất cổ xưa, được xây dựng khi mà vùng đất này vẫn còn nằm phía trên mực nước biển. Một số cho rằng bến cảng này đã từng hoạt động ít nhất khoảng 12.000 năm trước.

Các hòn đá được tạo hình để xây dựng bến cảng và con đê chắn sóng. Người ta còn tìm thấy hàng chục tảng đá dùng làm neo thuyền, với dấu vết các sợi dây xỏ qua lỗ đá. Điều này chứng tỏ "Con đường Bimini" là tàn tích của một bến cảng đã từng hoạt động.

Posted Image
Vào năm 2006, một "con đường" tương tự như thế được phát hiện cách vị trí của "Con đường Bimini" khoảng 1,6km. Trước đó nó bị cát biển che phủ, và sau một trận bão năm 2006, sóng đã bóc trần lớp cát đi để lộ ra công trình cổ đại này.

http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/9/f...80.com_0041.jpg

Posted ImageCuối năm 2006 và tháng 6/2007, hai đoàn thám hiểm đã đến Bimini nghiên cứu. Người ta áp dụng cả hai phương pháp quan trắc địa hình dưới đáy biển và phương pháp sonar (định vị thủy âm) tại một vài địa điểm. Họ đã tìm thấy một dải các cấu trúc cách Bimini vài km về phía Tây tại độ sâu hơn 30m. Máy tính cùng với phương pháp sonar đã phát hiện vô số các mẫu vật hình chữ nhật dưới đáy biển. Họ cũng tìm thấy các cột trụ tròn bằng ximăng hoặc đá cẩm thạch làm liên tưởng đến các bến cảng Địa Trung Hải thời cổ đại. Tuy nhiên không thể khẳng định Bimini là một bến cảng La Mã. Trong thực tế, vùng đất La Mã cổ đại cách đảo Bimini tới 5.000km ở phía bên kia đại dương. Ta chỉ có thể khẳng định là công nghệ xây dựng tại Bimini có những nét tương tự với của La Mã cổ đại. Thêm nữa, có những dấu hiệu cho thấy những cây cột này được dựng lên để thay thế cho những chỗ đã bị hư hại từ trước đó, có thể là của những công trình còn cổ xưa hơn nhiều.

Posted Image
Những cột trụ tròn được tìm thấy cách di tích Bimini vài km về phía Tây

Tại sao công trình này lại nằm dưới đáy biển, điều gì đã xảy ra cho hải cảng tiền sử này? Tại sao lại có nhiều công trình cùng chung số phận với nó như vậy? Ai là chủ nhân đích thực của nhiều công trình dưới đáy biển, khi giám định cho thấy chúng đã tồn tại trước nhiều ngàn năm so với những nền văn minh sớm nhất của chúng ta? Nền văn minh Lưỡng Hà, nền văn minh cổ Trung Hoa, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh cổ Ấn Độ không phải là điểm bắt đầu của lịch sử nhân loại. Với những dữ liệu và bằng chứng khảo cổ thu thập được càng ngày càng nhiều hơn, đã đến lúc cần phải xem xét lại toàn bộ lịch sử loài người một cách nghiêm túc.

Minh Trí (tổng hợp)
P/s Các bác có thể tham khảo thêm một sốt thông tin có tính gợi mở về việc lý giải các vấn đề này tại đâyhttp://phapluan.org/...html/index.html trong cuốn "Chuyển Pháp Luân" mục "Khí Công là văn hóa tiền sử"