Giải mã văn hóa Trung Hoa (I): Đồ hình cổ xưa hiện Pháp Luân
Tác giả: Chính Ngộ
[Chanhkien.org] Như mọi người đều biết, trong lịch sử Trung Quốc có một số đồ hình gắn liền với dân tộc Trung Hoa, ví dụ Hà Đồ, Lạc Thư, Bát quái, Thái Cực, phù hiệu chữ Vạn (卍), tựa như xuất hiện ngay khi kỷ nguyên lịch sử mới bắt đầu. Trước tiên chúng ta nói về ghi chép liên quan trong văn hiến cổ đại:
Tương truyền vào thời Phục Hy trong Tam Hoàng thời thượng cổ, trên sông Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã (đầu rồng mình ngựa), trên lưng có những điểm đen trắng cấu thành một bức đồ; Phục Hy theo đó mà diễn ra Bát quái, bức đồ này gọi là “Hà Đồ”. Rất nhiều người đều thử một quá trình suy luận như vậy, nhưng đều thất bại, từ đó cho rằng đây chỉ là truyền thuyết. Thực ra điều này là có thật, sau đây tôi sẽ nói về quá trình đưa ra như thế nào. Xin xem hình dưới:
Tương truyền khi Đại Vũ trong Ngũ Đế trị thủy, trên sông Lạc xuất hiện một con rùa lớn, trên lưng rùa mang hoa văn cấu thành một bức đồ, bức đồ gọi là “Lạc Thư”. Xin xem hình dưới:
Có người nói Hà Đồ, Lạc Thư đã được thừa nhận và ghi lại rõ ràng trong văn hiến thời cổ đại, nhưng phù hiệu chữ Vạn (卍) thì không phải của Trung Quốc, mà là sau này Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc mới có. Thực ra điều này không sai; tuy nhiên phù hiệu chữ Vạn (卍) này đã liên tục được lưu truyền tại Trung Quốc, chỉ là vô cùng ẩn giấu. Bí mật này kỳ thực ẩn trong Hà Đồ và Lạc Thư.
Lĩnh vực số học của chúng ta đối với nghiên cứu Lạc Thư là có rất nhiều, bởi vì Lạc Thư rất minh hiển, bất luận là ngang, dọc, trái, phải, chéo thì cộng tổng 3 số đều được 15. Đây chính là ma phương trong số học. Tuy rằng số học hiện đại dường như chưa động chạm đến Hà Đồ, nhưng khoa học cổ đại là có nghiên cứu; kỳ thực từ Hà Đồ này chúng ta có thể nhìn ra một quy luật. Lấy 10 và 5 làm trục. 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, bốn cặp số này đều có liên hệ mật thiết với nhau. Trong rất nhiều sách cổ thời cổ đại đều có luận thuật, hơn nữa nhiều ngành học đã vận dụng thành công quy luật này. Ở đây tôi không muốn dẫn giải những thứ này, mà chỉ xin đưa ra mấy câu trong tri thức văn hóa cổ đại Trung Quốc: “Thiên nhất sinh thủy, Địa lục thành chi…” Ai không tin có thể tra thử xem. Tôi có thể đưa ra mấy ví dụ nữa, bàn tính của Trung Quốc cũng sinh ra như vậy. Như mọi người biết, cách tính này kỳ thực là cực kỳ nhanh, vượt qua cả máy tính. Trên bàn tính, 1 và 6 đều là một hạt bên dưới, khác biệt với trên 0 còn có 5. 2-7, 3-8, 4-9, mấy cặp số này cũng như vậy. Điều này thuyết minh rằng giữa mấy số này xác thực là có liên hệ vi diệu. Sự thật chứng minh rằng các quy luật này không chỉ tồn tại, mà còn có tác dụng rất lớn.
Chúng ta đem quy luật loại này đưa vào Lạc Thư thì có thể được tình huống sau. Lấy 5 làm trung tâm, 1-6, 2-7, 3-8, 4-9 lần lượt có 4 cặp số nối liền. Được hình bên dưới:
Thật kinh ngạc! Cả người Đông và Tây phương đều thấy vậy! Tiêu chí của Phật gia—phù hiệu chữ Vạn (卍). Chúng ta biết rằng phù hiệu chữ Vạn (卍) này đều từng xuất hiện tại Ấn Độ và Tây Âu. Giới học thuật thường cho rằng Trung Quốc cũng đã sớm có, nhưng không có gì để chứng minh. Chẳng ngờ nó ẩn thân tại nơi đây. Hai đồ hình này đã được lưu truyền rất lâu trong lịch sử Trung Quốc. Khi giao thông trong quá khứ còn chưa thông suốt, cả Đông và Tây phương đều có phù hiệu này, liệu có thể là trùng hợp không?
Trong «Chuyển Pháp Luân» chỉ rõ: “Thực ra không chỉ khí công là được lưu lại từ niên đại xa xưa; [mà] Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái, v.v. đều là [những thứ] di lưu từ tiền sử. Vậy nên chúng ta hôm nay đứng tại góc độ người thường mà nghiên cứu chúng, nhận thức chúng, [thì] chẳng nghiên cứu được gì sáng tỏ. Đứng tại tầng, từ góc độ, trong cảnh giới tư tưởng của người thường, [thì] lý giải không được những điều chân chính [trong ấy].”
Chỉ một lời là rõ ngay. Đến đây dường như đã kết thúc rồi, không phải! Kỳ thực chúng ta mới chỉ vừa bắt đầu mà thôi.
Có người có thể nghĩ, lẽ nào là Pháp Luân? Không sai!
Trong giảng Pháp, Sư phụ Lý Hồng Chí đã nhiều lần giảng về vấn đề phản lý tại nhân gian, còn giảng qua câu chuyện Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược. Chúng ta nhìn thấy đúng là như vậy. Chúng ta biết rằng, có hai phù hiệu căn bản và trọng yếu nhất được lưu truyền từ thời cổ đại. Một là Thái Cực đồ của Trung Quốc, và một là phù hiệu chữ Vạn (卍). Vì nguyên nhân nào, thì trong «Chuyển Pháp Luân» Sư phụ Lý Hồng Chí đã nói rất tường tận rồi. Số lẻ cấu thành Lạc Thư (9 con số), ở trên đã phân tích qua, ở đó ẩn tàng phù hiệu chữ (卍); còn số chẵn cấu thành Hà Đồ (10 con số), ở đó ẩn tàng Thái Cực (sẽ có bài phân tích tường tận sau). Thực ra Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn (卍) có nguồn gốc sâu xa hơn Hà Đồ, Lạc Thư nhiều, chỉ là hai phù hiệu tạo nên hai đồ hình. Từ đó chúng ta có thể tìm lại quá khứ. Như vậy chúng ta đã biết phù hiệu chữ Vạn (卍) diễn xuất số lẻ, Thái Cực diễn xuất số chẵn. Các con số trong Lạc Thư chia thành hai nhóm, lần lượt là 1, 3, 5, 7, 9 (5 số lẻ) và 2, 4, 6, 8 (4 số chẵn). Chúng ta dùng phù hiệu chữ Vạn (卍) để thay thế số lẻ trong Lạc Thư, lại dùng Thái Cực để thay thế số chẵn, thì sẽ được một đồ hình, với bốn vị trí chính và trung tâm là phù hiệu chữ Vạn (卍), còn tứ giác là bốn Thái Cực, chính là đồ hình Pháp Luân.
Trong lịch sử, các loại sự tình đều sớm được an bài, hết thảy đều để chúng ta hôm nay có thể nhận thức Pháp. Trong những phần sau, tôi sẽ đàm luận về một số biểu hiện khác mà tôi ngộ được. Thái Cực cấu thành Ngũ hành như thế nào; Thái Cực, Ngũ hành biểu hiện ra sao trong giới tự nhiên và trên thân thể chúng ta; Pháp thượng tầng kéo theo biểu hiện của Pháp hạ tầng trong vật chất xung quanh chúng ta như thế nào, v.v. Sự thật chứng minh rằng «Chuyển Pháp Luân» quả đúng là Thiên Thư, câu nào cũng đều là chân lý, thiên cơ. Văn hóa Trung Quốc xác thực là văn hóa Thần truyền. Chúng ta may mắn sinh ra vào thời Đại Pháp hồng truyền, do vậy phải trân quý cơ duyên vạn cổ khó gặp này; hãy tu luyện Đại Pháp, ra sức tinh tấn, mới không phụ lòng từ bi hồng đại của Phật Chủ.
(còn tiếp)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2008/5/6/52710.html
[Chanhkien.org] Như mọi người đều biết, trong lịch sử Trung Quốc có một số đồ hình gắn liền với dân tộc Trung Hoa, ví dụ Hà Đồ, Lạc Thư, Bát quái, Thái Cực, phù hiệu chữ Vạn (卍), tựa như xuất hiện ngay khi kỷ nguyên lịch sử mới bắt đầu. Trước tiên chúng ta nói về ghi chép liên quan trong văn hiến cổ đại:
Tương truyền vào thời Phục Hy trong Tam Hoàng thời thượng cổ, trên sông Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã (đầu rồng mình ngựa), trên lưng có những điểm đen trắng cấu thành một bức đồ; Phục Hy theo đó mà diễn ra Bát quái, bức đồ này gọi là “Hà Đồ”. Rất nhiều người đều thử một quá trình suy luận như vậy, nhưng đều thất bại, từ đó cho rằng đây chỉ là truyền thuyết. Thực ra điều này là có thật, sau đây tôi sẽ nói về quá trình đưa ra như thế nào. Xin xem hình dưới:
Tương truyền khi Đại Vũ trong Ngũ Đế trị thủy, trên sông Lạc xuất hiện một con rùa lớn, trên lưng rùa mang hoa văn cấu thành một bức đồ, bức đồ gọi là “Lạc Thư”. Xin xem hình dưới:
Có người nói Hà Đồ, Lạc Thư đã được thừa nhận và ghi lại rõ ràng trong văn hiến thời cổ đại, nhưng phù hiệu chữ Vạn (卍) thì không phải của Trung Quốc, mà là sau này Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc mới có. Thực ra điều này không sai; tuy nhiên phù hiệu chữ Vạn (卍) này đã liên tục được lưu truyền tại Trung Quốc, chỉ là vô cùng ẩn giấu. Bí mật này kỳ thực ẩn trong Hà Đồ và Lạc Thư.
Lĩnh vực số học của chúng ta đối với nghiên cứu Lạc Thư là có rất nhiều, bởi vì Lạc Thư rất minh hiển, bất luận là ngang, dọc, trái, phải, chéo thì cộng tổng 3 số đều được 15. Đây chính là ma phương trong số học. Tuy rằng số học hiện đại dường như chưa động chạm đến Hà Đồ, nhưng khoa học cổ đại là có nghiên cứu; kỳ thực từ Hà Đồ này chúng ta có thể nhìn ra một quy luật. Lấy 10 và 5 làm trục. 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, bốn cặp số này đều có liên hệ mật thiết với nhau. Trong rất nhiều sách cổ thời cổ đại đều có luận thuật, hơn nữa nhiều ngành học đã vận dụng thành công quy luật này. Ở đây tôi không muốn dẫn giải những thứ này, mà chỉ xin đưa ra mấy câu trong tri thức văn hóa cổ đại Trung Quốc: “Thiên nhất sinh thủy, Địa lục thành chi…” Ai không tin có thể tra thử xem. Tôi có thể đưa ra mấy ví dụ nữa, bàn tính của Trung Quốc cũng sinh ra như vậy. Như mọi người biết, cách tính này kỳ thực là cực kỳ nhanh, vượt qua cả máy tính. Trên bàn tính, 1 và 6 đều là một hạt bên dưới, khác biệt với trên 0 còn có 5. 2-7, 3-8, 4-9, mấy cặp số này cũng như vậy. Điều này thuyết minh rằng giữa mấy số này xác thực là có liên hệ vi diệu. Sự thật chứng minh rằng các quy luật này không chỉ tồn tại, mà còn có tác dụng rất lớn.
Chúng ta đem quy luật loại này đưa vào Lạc Thư thì có thể được tình huống sau. Lấy 5 làm trung tâm, 1-6, 2-7, 3-8, 4-9 lần lượt có 4 cặp số nối liền. Được hình bên dưới:
Thật kinh ngạc! Cả người Đông và Tây phương đều thấy vậy! Tiêu chí của Phật gia—phù hiệu chữ Vạn (卍). Chúng ta biết rằng phù hiệu chữ Vạn (卍) này đều từng xuất hiện tại Ấn Độ và Tây Âu. Giới học thuật thường cho rằng Trung Quốc cũng đã sớm có, nhưng không có gì để chứng minh. Chẳng ngờ nó ẩn thân tại nơi đây. Hai đồ hình này đã được lưu truyền rất lâu trong lịch sử Trung Quốc. Khi giao thông trong quá khứ còn chưa thông suốt, cả Đông và Tây phương đều có phù hiệu này, liệu có thể là trùng hợp không?
Trong «Chuyển Pháp Luân» chỉ rõ: “Thực ra không chỉ khí công là được lưu lại từ niên đại xa xưa; [mà] Thái Cực, Hà Đồ, Lạc Thư, Chu Dịch, Bát Quái, v.v. đều là [những thứ] di lưu từ tiền sử. Vậy nên chúng ta hôm nay đứng tại góc độ người thường mà nghiên cứu chúng, nhận thức chúng, [thì] chẳng nghiên cứu được gì sáng tỏ. Đứng tại tầng, từ góc độ, trong cảnh giới tư tưởng của người thường, [thì] lý giải không được những điều chân chính [trong ấy].”
Chỉ một lời là rõ ngay. Đến đây dường như đã kết thúc rồi, không phải! Kỳ thực chúng ta mới chỉ vừa bắt đầu mà thôi.
Có người có thể nghĩ, lẽ nào là Pháp Luân? Không sai!
Trong giảng Pháp, Sư phụ Lý Hồng Chí đã nhiều lần giảng về vấn đề phản lý tại nhân gian, còn giảng qua câu chuyện Trương Quả Lão cưỡi lừa ngược. Chúng ta nhìn thấy đúng là như vậy. Chúng ta biết rằng, có hai phù hiệu căn bản và trọng yếu nhất được lưu truyền từ thời cổ đại. Một là Thái Cực đồ của Trung Quốc, và một là phù hiệu chữ Vạn (卍). Vì nguyên nhân nào, thì trong «Chuyển Pháp Luân» Sư phụ Lý Hồng Chí đã nói rất tường tận rồi. Số lẻ cấu thành Lạc Thư (9 con số), ở trên đã phân tích qua, ở đó ẩn tàng phù hiệu chữ (卍); còn số chẵn cấu thành Hà Đồ (10 con số), ở đó ẩn tàng Thái Cực (sẽ có bài phân tích tường tận sau). Thực ra Thái Cực và phù hiệu chữ Vạn (卍) có nguồn gốc sâu xa hơn Hà Đồ, Lạc Thư nhiều, chỉ là hai phù hiệu tạo nên hai đồ hình. Từ đó chúng ta có thể tìm lại quá khứ. Như vậy chúng ta đã biết phù hiệu chữ Vạn (卍) diễn xuất số lẻ, Thái Cực diễn xuất số chẵn. Các con số trong Lạc Thư chia thành hai nhóm, lần lượt là 1, 3, 5, 7, 9 (5 số lẻ) và 2, 4, 6, 8 (4 số chẵn). Chúng ta dùng phù hiệu chữ Vạn (卍) để thay thế số lẻ trong Lạc Thư, lại dùng Thái Cực để thay thế số chẵn, thì sẽ được một đồ hình, với bốn vị trí chính và trung tâm là phù hiệu chữ Vạn (卍), còn tứ giác là bốn Thái Cực, chính là đồ hình Pháp Luân.
Trong lịch sử, các loại sự tình đều sớm được an bài, hết thảy đều để chúng ta hôm nay có thể nhận thức Pháp. Trong những phần sau, tôi sẽ đàm luận về một số biểu hiện khác mà tôi ngộ được. Thái Cực cấu thành Ngũ hành như thế nào; Thái Cực, Ngũ hành biểu hiện ra sao trong giới tự nhiên và trên thân thể chúng ta; Pháp thượng tầng kéo theo biểu hiện của Pháp hạ tầng trong vật chất xung quanh chúng ta như thế nào, v.v. Sự thật chứng minh rằng «Chuyển Pháp Luân» quả đúng là Thiên Thư, câu nào cũng đều là chân lý, thiên cơ. Văn hóa Trung Quốc xác thực là văn hóa Thần truyền. Chúng ta may mắn sinh ra vào thời Đại Pháp hồng truyền, do vậy phải trân quý cơ duyên vạn cổ khó gặp này; hãy tu luyện Đại Pháp, ra sức tinh tấn, mới không phụ lòng từ bi hồng đại của Phật Chủ.
(còn tiếp)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2008/5/6/52710.html
Giải mã văn hóa Trung Hoa (II): Lên xuống thuận nghịch tạo càn khôn
Tác giả: Chính Ngộ
[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1)
Trong phần trước, tôi đã nói về phù hiệu chữ Vạn (卍) hiển hiện tại Lạc Thư; lần này, tôi sẽ nói về thể hiện của Thái Cực tại Hà Đồ. Kỳ thực trong khoa học cổ đại Trung Quốc vẫn coi số lẻ là Dương, số chẵn là Âm; những ai hiểu sâu về văn hóa cổ đại Trung Quốc đều biết điểm này. Chúng ta xem Hà Đồ thì có thể nhìn ra được, chính là đen (Âm) trắng (Dương). Xin xem hình dưới:
Do đó Dương từ 1 bắt đầu thăng dần lên theo Dương khí, 1→3→7→9, Âm từ 2 bắt đầu hạ dần xuống theo Âm khí, 2→4→6→8, đây chính là trạng thái ‘Dương thăng Âm hàng’. Hai màu đen-trắng của chúng ta thay nhau biểu thị, xin xem hình dưới:
Đồ hình trên thời cổ đại gọi là “Hữu cực đồ”; bởi vì văn hóa Trung Quốc đã bị phá hoại, nên rất ít người biết được đồ hình này. Chúng ta nhìn sự lên xuống của đen-trắng sẽ không khó phát hiện khi đến 7, thì thực ra Dương đã lên đến cực điểm rồi, đến 9 thì đã đi xuống rồi. Cũng như vậy khi đến 6 thì Âm đã xuống thấp cực điểm rồi, đến 8 thì đã đi lên rồi. Cổ nhân nói “vật cực tất phản”, chính là đạo lý này. Xoay ngược lại nói, từ chỉnh thể mà xét, Dương khí vượng nhất là lúc Âm khí dần thăng lên, Âm khí vượng nhất là lúc Dương khí dần hạ xuống. Kỳ thực đây chính là Thái Cực đồ. Do đó dùng hình dưới để biểu thị thì càng dễ lý giải hơn:
Theo tôi được biết, ‘Dương thăng Âm hàng’ là một đặc tính rất trọng yếu của Thái Cực. Đương nhiên khi chuyển ngược lại thì là ‘Âm thăng Dương hàng’ rồi. Trong Thái Cực đồ, chủng loại lên xuống này là đồng thời tồn tại. Có thể nhìn thấy nó hoàn toàn bị Pháp tầng cao hơn đới động dẫn tới xoay chuyển xuôi ngược, trong «Chuyển Pháp Luân» đã nói rõ. Điều này thể hiện rất nhiều xung quanh chúng ta. Ban ngày Dương khí dần thăng, thủy khí {hơi nước} đều bị đới động thăng lên trên, Âm khí hạ xuống, đến tối chuyển ngược lại. Cổ nhân giảng Dương thanh thăng lên làm trời, Âm trọc hạ xuống làm đất. Bốn mùa cũng là đạo lý này, chớm Xuân nước nóng dần lên (Dương khí), đến mùa Hè là tới cực điểm, sau đó nước bắt đầu lạnh (Âm khí), đến mùa Thu càng lạnh, tới mùa Đông Âm khí trên trời đạt đến cực điểm, bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Trung y giảng 12 kinh tuần hoàn cũng là như vậy, gồm rất nhiều nội dung. Tức là Trung y phát hiện thân thể người nửa thân trên là ‘Dương thăng Âm hàng’, nửa thân dưới là ‘Âm thăng Dương hàng’. Bài công pháp thứ tư của Pháp Luân Đại Pháp là trực tiếp chuyển động theo chính diện. Từ đó có thể thấy, Pháp Luân Đại Pháp xác thực là chiểu theo nguyên lý diễn hóa của vũ trụ mà luyện, hơn nữa cả chỉnh thể đều được khống chế khi luyện.
Đây là từ trên xuống dưới mà nhìn; từ một góc độ khác, thì có ‘Dương dọc Âm ngang’. Chúng ta biết rằng ban ngày Dương khí thịnh, còn ban đêm Âm khí thịnh. Con người chúng ta trong một ngày đêm cũng bị đới động biến hóa theo. Ban ngày đứng thẳng sinh hoạt lao động, đến đêm nằm ngang ngả lưng đi ngủ. Tuy nhiên hiện tại hết thảy đều bị phá hoại nghiêm trọng, có người sống về đêm; buổi tối không ngủ, ban ngày mới ngủ. Đâu đâu cũng tồn tại biến dị.
Phần này nói đến đây là hết. Kỳ thực còn có rất nhiều thể hiện khác chưa được giảng. Phần sau chúng ta sẽ nói về thể hiện cụ thể hơn nữa của Thái Cực tại nhân gian: Nó cấu thành thân thể như thế nào, quy tắc phi thường, đâu đâu cũng đều diễn hóa đới động theo Pháp, hoàn toàn không như người thường vẫn tưởng.
Dịch từ:
http://big5.zhengjian.org/articles/2008/5/14/52850.html
[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1)
Trong phần trước, tôi đã nói về phù hiệu chữ Vạn (卍) hiển hiện tại Lạc Thư; lần này, tôi sẽ nói về thể hiện của Thái Cực tại Hà Đồ. Kỳ thực trong khoa học cổ đại Trung Quốc vẫn coi số lẻ là Dương, số chẵn là Âm; những ai hiểu sâu về văn hóa cổ đại Trung Quốc đều biết điểm này. Chúng ta xem Hà Đồ thì có thể nhìn ra được, chính là đen (Âm) trắng (Dương). Xin xem hình dưới:
Do đó Dương từ 1 bắt đầu thăng dần lên theo Dương khí, 1→3→7→9, Âm từ 2 bắt đầu hạ dần xuống theo Âm khí, 2→4→6→8, đây chính là trạng thái ‘Dương thăng Âm hàng’. Hai màu đen-trắng của chúng ta thay nhau biểu thị, xin xem hình dưới:
Đồ hình trên thời cổ đại gọi là “Hữu cực đồ”; bởi vì văn hóa Trung Quốc đã bị phá hoại, nên rất ít người biết được đồ hình này. Chúng ta nhìn sự lên xuống của đen-trắng sẽ không khó phát hiện khi đến 7, thì thực ra Dương đã lên đến cực điểm rồi, đến 9 thì đã đi xuống rồi. Cũng như vậy khi đến 6 thì Âm đã xuống thấp cực điểm rồi, đến 8 thì đã đi lên rồi. Cổ nhân nói “vật cực tất phản”, chính là đạo lý này. Xoay ngược lại nói, từ chỉnh thể mà xét, Dương khí vượng nhất là lúc Âm khí dần thăng lên, Âm khí vượng nhất là lúc Dương khí dần hạ xuống. Kỳ thực đây chính là Thái Cực đồ. Do đó dùng hình dưới để biểu thị thì càng dễ lý giải hơn:
Theo tôi được biết, ‘Dương thăng Âm hàng’ là một đặc tính rất trọng yếu của Thái Cực. Đương nhiên khi chuyển ngược lại thì là ‘Âm thăng Dương hàng’ rồi. Trong Thái Cực đồ, chủng loại lên xuống này là đồng thời tồn tại. Có thể nhìn thấy nó hoàn toàn bị Pháp tầng cao hơn đới động dẫn tới xoay chuyển xuôi ngược, trong «Chuyển Pháp Luân» đã nói rõ. Điều này thể hiện rất nhiều xung quanh chúng ta. Ban ngày Dương khí dần thăng, thủy khí {hơi nước} đều bị đới động thăng lên trên, Âm khí hạ xuống, đến tối chuyển ngược lại. Cổ nhân giảng Dương thanh thăng lên làm trời, Âm trọc hạ xuống làm đất. Bốn mùa cũng là đạo lý này, chớm Xuân nước nóng dần lên (Dương khí), đến mùa Hè là tới cực điểm, sau đó nước bắt đầu lạnh (Âm khí), đến mùa Thu càng lạnh, tới mùa Đông Âm khí trên trời đạt đến cực điểm, bắt đầu một vòng tuần hoàn mới. Trung y giảng 12 kinh tuần hoàn cũng là như vậy, gồm rất nhiều nội dung. Tức là Trung y phát hiện thân thể người nửa thân trên là ‘Dương thăng Âm hàng’, nửa thân dưới là ‘Âm thăng Dương hàng’. Bài công pháp thứ tư của Pháp Luân Đại Pháp là trực tiếp chuyển động theo chính diện. Từ đó có thể thấy, Pháp Luân Đại Pháp xác thực là chiểu theo nguyên lý diễn hóa của vũ trụ mà luyện, hơn nữa cả chỉnh thể đều được khống chế khi luyện.
Đây là từ trên xuống dưới mà nhìn; từ một góc độ khác, thì có ‘Dương dọc Âm ngang’. Chúng ta biết rằng ban ngày Dương khí thịnh, còn ban đêm Âm khí thịnh. Con người chúng ta trong một ngày đêm cũng bị đới động biến hóa theo. Ban ngày đứng thẳng sinh hoạt lao động, đến đêm nằm ngang ngả lưng đi ngủ. Tuy nhiên hiện tại hết thảy đều bị phá hoại nghiêm trọng, có người sống về đêm; buổi tối không ngủ, ban ngày mới ngủ. Đâu đâu cũng tồn tại biến dị.
Phần này nói đến đây là hết. Kỳ thực còn có rất nhiều thể hiện khác chưa được giảng. Phần sau chúng ta sẽ nói về thể hiện cụ thể hơn nữa của Thái Cực tại nhân gian: Nó cấu thành thân thể như thế nào, quy tắc phi thường, đâu đâu cũng đều diễn hóa đới động theo Pháp, hoàn toàn không như người thường vẫn tưởng.
Dịch từ:
http://big5.zhengjian.org/articles/2008/5/14/52850.html
Giải mã văn hóa Trung Hoa (III): Pháp thành hồng vi vô hạn vật
Tác giả: Chính Ngộ
[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1, Phần 2)
Vũ trụ sinh ra và tồn tại như thế nào mãi vẫn là chủ đề nghiên cứu của nhân loại. Trong «Chuyển Pháp Luân» chỉ rõ: “Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản. Phật Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức thể hiện khác nhau, tại các tầng khác nhau có các tác dụng chỉ đạo khác nhau; tầng càng thấp [thì] biểu hiện càng phức tạp. Vi lạp không khí, đá, gỗ, đất, sắt thép, [thân] thể người, hết thảy vật chất đều có tồn tại trong nó cái chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy; thời xưa giảng rằng ngũ hành cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vũ trụ; [ngũ hành kia] cũng có tồn tại chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy.”
Dưới đây tôi sẽ đàm luận một chút nhận thức về vấn đề này. Tại một tầng thứ nhất định, Thái Cực mà chúng ta nhìn thấy chính là như vậy. Đặc tính sẵn có của Âm-Dương là rất phức tạp, ví như Dương động Âm tĩnh, Dương thượng Âm hạ, Dương tả Âm hữu, Dương dọc Âm ngang, Dương hư Âm thực, Dương ngoại Âm nội, Dương cương Âm nhu, Dương lẻ Âm chẵn, v.v.
Tôi sẽ lấy thân thể người để giải thích. Đạo (Pháp) hình thành Thái Cực biểu hiện trên thân thể người gồm vô số tầng, càng xuống dưới càng phức tạp, tính hỗn hợp càng lớn, càng lên trên càng thuần, đều chồng lên thân thể người, từ đó cấu thành các chủng cơ năng và kết cấu cơ thể người.
Trong «Tinh Tấn Yếu Chỉ» chỉ rõ: “Bất kể loại vật chất và sinh mệnh nào trong vũ trụ đều là từ lạp tử vi quan tổ hợp thành một tầng lạp tử lớn hơn, từ đó tổ hợp thành vật thể bề mặt. Trong phạm vi quán xuyến của hai chủng vật chất tính chất khác nhau này, hết thảy vật chất, hết thảy sinh mệnh đều là giống nhau có tồn tại hai dạng tính, ví như thép rất cứng rắn, nhưng chôn xuống đất thì sẽ bị rỉ mà tiêu đi, còn đồ gốm sứ khi bị chôn dưới đất sẽ không bị ô-xy hoá mà hỏng, nhưng chúng giòn và dễ vỡ.” (Phật tính và ma tính)
Do đó hình thức tồn tại trên thân thể người chính là trong Thái Cực còn có Thái Cực, trong Thái Cực ấy lại có Thái Cực khác nữa, phân thành vô hạn.
Từ tầng ngoài cùng nhất mà xét, Âm-Dương mà Pháp căn bản (Chân-Thiện-Nhẫn) tạo thành sẽ quyết định hai dạng tính của người, nam Dương nữ Âm; từ tính cách cũng có thể phân thành Nam nhân cương Dương, nữ nhân Âm nhu. Giờ hạ xuống một tầng nữa để xét từ góc độ cá thể. Ở phần trước, tôi đã bàn về cách nói Dương thanh thăng lên trên, Âm trọc hạ xuống dưới vào thời Trung Quốc cổ đại. Thực ra theo chỗ tôi biết, đây chính là do Đại Pháp Chân-Thiện-Nhẫn tạo thành. Trong «Chuyển Pháp Luân» có một ví dụ rất sinh động như sau: “Lấy một ví dụ, một chiếc chai đựng đầy thứ dơ bẩn, xiết nút thật chặt; ném nó xuống nước, thì nó chìm ngay đến đáy. Chư vị đổ những thứ bẩn đi, càng đổ nhiều ra thì nó lại càng có thể nổi lên cao hơn; [nếu] đổ hết [thứ bẩn] ra ngoài, [thì] nó nổi hẳn lên trên.” Tất nhiên đây chỉ là thể hiện ở một phương diện, tôi phát hiện kỳ thực tất cả đặc tính mà Thái Cực sở hữu đều là Đại Pháp tạo thành. Trong phần trước, tôi đã nói về phương thức lưu động của kinh mạch trong cơ thể, với chỉnh thể cũng là một Thái Cực và không trùng lặp. Nửa thân trên tại một tầng thứ nhất định thì toàn bộ chính là tính Dương, nửa thân dưới là tính Âm, trong thân thể có phần phân cách ngũ tạng (Trung y giảng ngũ tạng là chỉ can, tâm, tì, phế, thận, đối ứng với Ngũ hành). Dương động Âm tĩnh, chúng ta có thể thấy được, trong ngũ tạng của người, phổi nằm ở trên (Dương), do đó có thể động; còn gan, thận nằm ở dưới (Âm), đều không thể động. Đây thực ra chính là thể hiện của Thái Cực tại một tầng thứ nhất định.
Chúng ta biết rằng người xưa vẫn luôn có cách nói rằng ‘Dương tả Âm hữu’. Loại giao thoa tương hỗ trên dưới, trái phải này, lưỡng tầng trùng tổ, thực tế sẽ xuất hiện năm loại tình huống. Một phần toàn là Dương, một phần Dương nhiều Âm ít, một phần Âm nhiều Dương ít, một phần toàn là Âm, còn có một khả năng, chính là Âm-Dương hoàn toàn bình quân. Theo tôi đây chính là nguồn gốc của Ngũ hành; thực ra nó là do Âm-Dương cấu thành, mà Âm-Dương lại do Đại Pháp Chân-Thiện-Nhẫn cấu thành. Hơn nữa tầng Ngũ hành này đã sản sinh ra đặc tính, chính là ‘tương sinh’ (Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc) và ‘tương khắc’ (Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc); nguyên nó là sự tương hỗ đối lập trên một tầng Thái Cực. Mời xem hình dưới:
Sư phụ Lý Hồng Chí khi giảng Pháp đều chỉ thẳng vào trọng tâm. «Tinh Tấn Yếu Chỉ» chỉ rõ rằng: “Ở rất cao và rất vi quan nơi vũ trụ tồn tại hai chủng vật chất khác nhau, đó cũng là đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn tối cao của vũ trụ, thể hiện ra thành hình thức tồn tại của hai chủng vật chất ở một tầng thứ không gian nhất định của vũ trụ. Xuyên suốt từ đó trở xuống, từ vi quan đến hồng quan cho đến một không gian nhất định. Càng xuống dưới thì hai loại vật chất tính chất này, thuận theo trạng thái biểu hiện của Pháp tại các tầng thứ khác nhau, mà biểu hiện càng khác nhau, khác biệt càng lớn. Từ đó mà sinh ra điều mà Đạo gia gọi là Lý ‘âm dương và thái cực’. Xuống tiếp nữa, hai chủng vật chất tính chất khác nhau này càng ngày càng phát sinh đối lập, như vậy hình thành Lý ‘tương sinh tương khắc’.” (Phật tính và ma tính)
Trên thân thể người, Âm-Dương biểu hiện là khí (Dương) huyết (Âm), do đó quá khứ sách Trung y giảng nam nặng tại khí, khí của nam nhân vượng-suy sẽ sản sinh tinh khí; nữ nặng tại huyết, huyết của nữ nhân tròn-khuyết sẽ sản sinh kinh nguyệt. Chúng ta giờ lại từ ngũ quan mà giảng; cổ tịch Trung y «Hoàng Đế nội kinh» đã minh xác ghi lại quan hệ đối ứng giữa ngũ tạng và Ngũ hành. Để giúp mọi người lý giải, tôi liệt kê như sau:
Ngũ quan – ngũ tạng – Ngũ hành – công năng – trạng thái Âm Dương – trạng thái vận động
Thổ khởi tác dụng bình hành nằm ở giữa (trạng thái trung gian), bởi vì còn liên quan đến đạo lý khác, nên nếu có cơ hội tôi sẽ giảng sau.
Từ những ví dụ ở trên, chúng ta có thể thấy: Pháp thượng tầng hình thành một tầng Pháp ở dưới, càng xuống dưới càng phức tạp, tính hỗn hợp càng lớn. Vật chất ở tầng dưới sau khi sinh ra từ tầng trên sẽ kế thừa đặc trưng của thượng tầng. Khi vận hành, thượng tầng sẽ tự nhiên hình thành và chế ước vật chất tầng dưới, theo cách nói của Đại Pháp là hoàn toàn tương hợp. Từ đó có thể thấy Pháp Luân Đại Pháp đúng là thể hiện chân thực của Pháp vũ trụ.
Những sự việc xung quanh chúng ta, đâu đâu cũng đều kỳ diệu khó tả nếu chúng ta nhìn sâu hơn. Những người có đầu não đều có thể minh bạch, điều này hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Rất có quy tắc, hoàn toàn không giống như chúng ta vẫn nghĩ. Mỗi phân mỗi tấc trên sinh mệnh chúng ta đều do Pháp cấu thành và diễn hóa. Đồng thời cũng chứng minh rằng trong «Chuyển Pháp Luân» câu nào cũng là chân lý, Chân-Thiện-Nhẫn quả đúng là bản nguyên tạo ra hết thảy sinh mệnh và vật chất trong vũ trụ. Chỉ bởi nó quá cao thâm, nên khoa học bề mặt của nhân loại không sao nghiên cứu được. Thế nhưng khoa học cổ đại của Trung Quốc rõ ràng là đã đi sâu hơn rất nhiều so với khoa học hiện đại.
(Hết)
Dịch từ:
http://zhengjian.org/zj/articles/2008/6/1/53128.html
[Chanhkien.org] (Tiếp theo Phần 1, Phần 2)
Vũ trụ sinh ra và tồn tại như thế nào mãi vẫn là chủ đề nghiên cứu của nhân loại. Trong «Chuyển Pháp Luân» chỉ rõ: “Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản. Phật Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức thể hiện khác nhau, tại các tầng khác nhau có các tác dụng chỉ đạo khác nhau; tầng càng thấp [thì] biểu hiện càng phức tạp. Vi lạp không khí, đá, gỗ, đất, sắt thép, [thân] thể người, hết thảy vật chất đều có tồn tại trong nó cái chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy; thời xưa giảng rằng ngũ hành cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vũ trụ; [ngũ hành kia] cũng có tồn tại chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy.”
Dưới đây tôi sẽ đàm luận một chút nhận thức về vấn đề này. Tại một tầng thứ nhất định, Thái Cực mà chúng ta nhìn thấy chính là như vậy. Đặc tính sẵn có của Âm-Dương là rất phức tạp, ví như Dương động Âm tĩnh, Dương thượng Âm hạ, Dương tả Âm hữu, Dương dọc Âm ngang, Dương hư Âm thực, Dương ngoại Âm nội, Dương cương Âm nhu, Dương lẻ Âm chẵn, v.v.
Tôi sẽ lấy thân thể người để giải thích. Đạo (Pháp) hình thành Thái Cực biểu hiện trên thân thể người gồm vô số tầng, càng xuống dưới càng phức tạp, tính hỗn hợp càng lớn, càng lên trên càng thuần, đều chồng lên thân thể người, từ đó cấu thành các chủng cơ năng và kết cấu cơ thể người.
Trong «Tinh Tấn Yếu Chỉ» chỉ rõ: “Bất kể loại vật chất và sinh mệnh nào trong vũ trụ đều là từ lạp tử vi quan tổ hợp thành một tầng lạp tử lớn hơn, từ đó tổ hợp thành vật thể bề mặt. Trong phạm vi quán xuyến của hai chủng vật chất tính chất khác nhau này, hết thảy vật chất, hết thảy sinh mệnh đều là giống nhau có tồn tại hai dạng tính, ví như thép rất cứng rắn, nhưng chôn xuống đất thì sẽ bị rỉ mà tiêu đi, còn đồ gốm sứ khi bị chôn dưới đất sẽ không bị ô-xy hoá mà hỏng, nhưng chúng giòn và dễ vỡ.” (Phật tính và ma tính)
Do đó hình thức tồn tại trên thân thể người chính là trong Thái Cực còn có Thái Cực, trong Thái Cực ấy lại có Thái Cực khác nữa, phân thành vô hạn.
Từ tầng ngoài cùng nhất mà xét, Âm-Dương mà Pháp căn bản (Chân-Thiện-Nhẫn) tạo thành sẽ quyết định hai dạng tính của người, nam Dương nữ Âm; từ tính cách cũng có thể phân thành Nam nhân cương Dương, nữ nhân Âm nhu. Giờ hạ xuống một tầng nữa để xét từ góc độ cá thể. Ở phần trước, tôi đã bàn về cách nói Dương thanh thăng lên trên, Âm trọc hạ xuống dưới vào thời Trung Quốc cổ đại. Thực ra theo chỗ tôi biết, đây chính là do Đại Pháp Chân-Thiện-Nhẫn tạo thành. Trong «Chuyển Pháp Luân» có một ví dụ rất sinh động như sau: “Lấy một ví dụ, một chiếc chai đựng đầy thứ dơ bẩn, xiết nút thật chặt; ném nó xuống nước, thì nó chìm ngay đến đáy. Chư vị đổ những thứ bẩn đi, càng đổ nhiều ra thì nó lại càng có thể nổi lên cao hơn; [nếu] đổ hết [thứ bẩn] ra ngoài, [thì] nó nổi hẳn lên trên.” Tất nhiên đây chỉ là thể hiện ở một phương diện, tôi phát hiện kỳ thực tất cả đặc tính mà Thái Cực sở hữu đều là Đại Pháp tạo thành. Trong phần trước, tôi đã nói về phương thức lưu động của kinh mạch trong cơ thể, với chỉnh thể cũng là một Thái Cực và không trùng lặp. Nửa thân trên tại một tầng thứ nhất định thì toàn bộ chính là tính Dương, nửa thân dưới là tính Âm, trong thân thể có phần phân cách ngũ tạng (Trung y giảng ngũ tạng là chỉ can, tâm, tì, phế, thận, đối ứng với Ngũ hành). Dương động Âm tĩnh, chúng ta có thể thấy được, trong ngũ tạng của người, phổi nằm ở trên (Dương), do đó có thể động; còn gan, thận nằm ở dưới (Âm), đều không thể động. Đây thực ra chính là thể hiện của Thái Cực tại một tầng thứ nhất định.
Chúng ta biết rằng người xưa vẫn luôn có cách nói rằng ‘Dương tả Âm hữu’. Loại giao thoa tương hỗ trên dưới, trái phải này, lưỡng tầng trùng tổ, thực tế sẽ xuất hiện năm loại tình huống. Một phần toàn là Dương, một phần Dương nhiều Âm ít, một phần Âm nhiều Dương ít, một phần toàn là Âm, còn có một khả năng, chính là Âm-Dương hoàn toàn bình quân. Theo tôi đây chính là nguồn gốc của Ngũ hành; thực ra nó là do Âm-Dương cấu thành, mà Âm-Dương lại do Đại Pháp Chân-Thiện-Nhẫn cấu thành. Hơn nữa tầng Ngũ hành này đã sản sinh ra đặc tính, chính là ‘tương sinh’ (Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc) và ‘tương khắc’ (Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc); nguyên nó là sự tương hỗ đối lập trên một tầng Thái Cực. Mời xem hình dưới:
Sư phụ Lý Hồng Chí khi giảng Pháp đều chỉ thẳng vào trọng tâm. «Tinh Tấn Yếu Chỉ» chỉ rõ rằng: “Ở rất cao và rất vi quan nơi vũ trụ tồn tại hai chủng vật chất khác nhau, đó cũng là đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn tối cao của vũ trụ, thể hiện ra thành hình thức tồn tại của hai chủng vật chất ở một tầng thứ không gian nhất định của vũ trụ. Xuyên suốt từ đó trở xuống, từ vi quan đến hồng quan cho đến một không gian nhất định. Càng xuống dưới thì hai loại vật chất tính chất này, thuận theo trạng thái biểu hiện của Pháp tại các tầng thứ khác nhau, mà biểu hiện càng khác nhau, khác biệt càng lớn. Từ đó mà sinh ra điều mà Đạo gia gọi là Lý ‘âm dương và thái cực’. Xuống tiếp nữa, hai chủng vật chất tính chất khác nhau này càng ngày càng phát sinh đối lập, như vậy hình thành Lý ‘tương sinh tương khắc’.” (Phật tính và ma tính)
Trên thân thể người, Âm-Dương biểu hiện là khí (Dương) huyết (Âm), do đó quá khứ sách Trung y giảng nam nặng tại khí, khí của nam nhân vượng-suy sẽ sản sinh tinh khí; nữ nặng tại huyết, huyết của nữ nhân tròn-khuyết sẽ sản sinh kinh nguyệt. Chúng ta giờ lại từ ngũ quan mà giảng; cổ tịch Trung y «Hoàng Đế nội kinh» đã minh xác ghi lại quan hệ đối ứng giữa ngũ tạng và Ngũ hành. Để giúp mọi người lý giải, tôi liệt kê như sau:
Ngũ quan – ngũ tạng – Ngũ hành – công năng – trạng thái Âm Dương – trạng thái vận động
Mục can Mộc tàng huyết Âm trung Âm tĩnhThật là kỳ diệu! Dương ngoại hóa, Âm nội thu. Công năng của ngũ tạng mà Trung y giảng, kỳ thực là hỗn hợp Âm-Dương tạo thành. Hai tạng huyết, một hóa (Dương) một tàng (Âm); hai tạng khí, một hóa (Dương) một nạp (Âm). Trạng thái Âm-Dương liệt kê trong biểu trên thực ra chỉ là nhìn từ một tầng diện. Từ một tầng diện khác, toàn bộ ngũ tạng là do Âm hóa sinh, toàn bộ lục phủ là do Dương hóa sinh. Tuy nhiên dù thế nào đi nữa, thân thể người đều nghiêm khắc chiểu theo quy luật Âm-Dương mà tiến hành diễn hóa phức tạp. Đây là nhìn từ góc độ công năng của ngũ tạng, tiếp đây chúng ta sẽ từ hình thái hoặc khí chất để nhìn. Trước hết nói về ngũ quan. Dương hư Âm thực, hai khiếu khí (mũi và tai) trống rỗng, hai khiếu huyết (mắt và lưỡi) lại là thực thể. Dương dọc Âm ngang, hai khiếu khí (mũi và tai) mọc theo hướng dọc, hai khiếu huyết (mắt và lưỡi) mọc theo hướng ngang. Điều kỳ diệu nhất chính là trong hai khiếu khí nằm dọc, một khiếu nằm ở trước sau trung tuyến (mũi), một khiếu nằm ở trái phải trung tuyến (tai). Còn hai khiếu huyết nằm ngang, một là hướng trước sau (lưỡi), một là hướng trái phải (mắt), hơn nữa các khiếu còn đan xen ngang dọc, phương hướng cũng bất đồng, xin xem hình dưới:
Thiệt tâm Hỏa hóa huyết Âm trung Dương động
Khẩu tì Thổ vận hóa bình hành
Tị phế Kim hóa khí Dương trung Dương động
Nhĩ thận Thủy nạp khí Dương trung Âm tĩnh
Thổ khởi tác dụng bình hành nằm ở giữa (trạng thái trung gian), bởi vì còn liên quan đến đạo lý khác, nên nếu có cơ hội tôi sẽ giảng sau.
Từ những ví dụ ở trên, chúng ta có thể thấy: Pháp thượng tầng hình thành một tầng Pháp ở dưới, càng xuống dưới càng phức tạp, tính hỗn hợp càng lớn. Vật chất ở tầng dưới sau khi sinh ra từ tầng trên sẽ kế thừa đặc trưng của thượng tầng. Khi vận hành, thượng tầng sẽ tự nhiên hình thành và chế ước vật chất tầng dưới, theo cách nói của Đại Pháp là hoàn toàn tương hợp. Từ đó có thể thấy Pháp Luân Đại Pháp đúng là thể hiện chân thực của Pháp vũ trụ.
Những sự việc xung quanh chúng ta, đâu đâu cũng đều kỳ diệu khó tả nếu chúng ta nhìn sâu hơn. Những người có đầu não đều có thể minh bạch, điều này hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Rất có quy tắc, hoàn toàn không giống như chúng ta vẫn nghĩ. Mỗi phân mỗi tấc trên sinh mệnh chúng ta đều do Pháp cấu thành và diễn hóa. Đồng thời cũng chứng minh rằng trong «Chuyển Pháp Luân» câu nào cũng là chân lý, Chân-Thiện-Nhẫn quả đúng là bản nguyên tạo ra hết thảy sinh mệnh và vật chất trong vũ trụ. Chỉ bởi nó quá cao thâm, nên khoa học bề mặt của nhân loại không sao nghiên cứu được. Thế nhưng khoa học cổ đại của Trung Quốc rõ ràng là đã đi sâu hơn rất nhiều so với khoa học hiện đại.
(Hết)
Dịch từ:
http://zhengjian.org/zj/articles/2008/6/1/53128.html